23 tháng 9, 2010

Kinh tế học hành vi, kinh tế học thực nghiệm

Hỏi: Xin hỏi sự khác biệt (hay là liên hệ) giữa kinh tế học hành vi (Behavioural Economics) và kinh tế học thực nghiệm (Experimental Economics)? Có thể cho giúp ví dụ minh họa để hình dung về 2 lĩnh vực nghiên cứu này?

Hiện nay, sự phát triển và ứng dụng 2 lĩnh vực nghiên cứu này đang ở đâu? Có thể giúp gợi ý một số hướng nghiên cứu liên quan?

Xin cảm ơn.nhanlt


Trả lời:

- Sự khác biệt giữa "kinh tế học hành vi" và "kinh tế học thực nghiệm":

+ Chữ "hành vi" và chữ "thực nghiệm" khác nhau.

+ Kinh tế học hành vi đưa các yếu tố tâm lý học vào các mô hình kinh tế tiêu chuẩn (thường là tân cổ điển) để mô tả và giải thích mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Kinh tế học tân cổ điển không giải thích được hiện tượng này: 99,98% số người được hỏi ở Áo đồng ý hiến nội tạng (sau khi mình qua đời) vì mục đích nhân đạo, trong khi chỉ 12% người Đức láng giềng đồng ý hiến (Bài viết của Johnson và Goldstein trên Science số 302 năm 2003). Sự khác nhau này là do 1 yếu tố nhỏ: khi hỏi người Áo, mặc định chọn lựa là "đồng ý hiến nội tạng", trong khi với người Đức, mặc định chọn lựa là "không đồng ý hiến". Khi ra quyết định, người ta không chỉ dựa trên "sự ưa thích" (preferences) của bản thân mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác, chẳng hạn trường hợp để mặc định ở trên. Và cái này thì do yếu tố tâm lý chi phối. Daniel Kahneman, người được giải Nobel kinh tế học cho kinh tế học hành vi năm 2002, là một nhà tâm lý học.

+ Kinh tế học thực nghiệm không phải là một lĩnh vực nghiên cứu như kinh tế học hành vi mà thực ra là một phương pháp nghiên cứu. Có thể áp dụng phương pháp thực nghiệm kinh tế học cho hầu hết các lĩnh vực (chủ đề) nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu này là "thực nghiệm" hay "thí nghiệm" (một vài nghiên cứu ở VN dùng chữ "nghiên cứu thực nghiệm" dịch từ chữ "empirical study"). Các ngành khác thí nghiệm với chuột, kinh tế học thí nghiệm với người. Thí nghiệm về hành vi của con người. Chẳng hạn có 2 nhóm mọi thứ đều giống nhau, chỉ khác nhau là nam và nữ. Bạn đưa thành viên mỗi nhóm 100.000 đồng, và đề nghị trích từ đó ra một số tiền để đóng góp vào 1 quỹ từ thiện. Sau đó bạn tính trung bình số tiền đóng góp của 2 nhóm, để thấy nam với nữ ai nhân ái và thích công bằng hơn ai.

- Sự liên hệ giữa "kinh tế học hành vi" và "kinh tế học thực nghiệm":

+ Một giải Nobel kinh tế năm 2002 được trao cho 2 người: Daniel Kahneman về đóng góp cho kinh tế học hành vi, và Venon Smith về kinh tế học thực nghiệm.

+ Kinh tế học hành vi kết hợp quá trình tâm lý vào mô hình kinh tế. Mà kết quả của quá trình tâm lý thì khó mà biết được vì chì quan sát được hiện tượng, mà hiện tượng thì có thể có nhiều yếu tố lẫn vào tạo nên. Thực nghiệm kinh tế học cho phép kiểm soát các yếu tố lẫn vào đó, để từ đó rút ra được tác động tâm lý mà nhà nghiên cứu muốn biết.

- Tương lai: có thể tươi sáng! Khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu vừa rồi cho thấy kinh tế học dòng chính kém cỏi khi đưa ra cách thức cấu trúc nền kinh tế và bất lực khi dự báo. Giải Nobel kinh tế năm 2009 được trao cho Elinor Ostrom. Giới kinh tế học thực nghiệm coi Elinor Ostrom là một nhà kinh tế học thưc nghiệm, mặc dù chuyên môn chính của bà là khoa học chính trị. Huy chương Clark cho nhà kinh tế học dưới 40 tuổi (một giải được coi như tiền Nobel) năm nay 2010 được trao cho Esther Duflo, là một nhà kinh tế học thực nghiệm, chuyên nghiên cứu về các vấn đề phát triển.

6 tháng 9, 2010

Sợi xích 2

Lần trước là em Lê Kiều Như, lần này là em tên là Lại Thị Diệu Hà. Thú thực tui rất lơ tơ mơ về nghệ thuật, nhưng thấy mọi người tung xích trói em Diệu Hà dữ dội quá nên ngứa miệng nói lung tung. Số là gần đây thiên hạ bàn tán xôn xao về một buổi trình diễn nghệ thuật đương đại ở Hà nội. Cô này trải lớp lông vũ màu xanh xuống sàn nhà, bên cạnh 1 lồng chim, rồi bước lên cởi quần áo dần dần cho đến hết, rồi bôi hồ lên người, nằm xuống cho mọi người lấy lông vũ phủ lên, rồi đứng dậy, lấy con chim bỏ vào miệng rồi nhả ra phóng sinh, rồi tự mình bay lên như chim.

Thú thực là tui vẫn chưa đủ trình độ để cảm được loại hình nghệ thuật này. Chỉ thấy thú vị là cô nghệ sỹ này thiệt là dám làm. Tuy nhiên mọi người la lối cô này quá xá. Tui thấy ý kiến mọi người tập hợp ở những điểm này nè (mà sao tui rảnh thiệt...):

- Thân hình cô này xấu quá, vậy mà cứ khoe ra. Có phải trình diễn thời trang đâu mà mọi người cứ xăm xăm vào đấy nhỉ, hay là phải cho em Hồ Ngọc Hà Ngô Thanh Vân lên diễn thay mọi người mới chịu? Mà tui thấy ở VN, muốn diễn tả sự tự do, các nghệ sĩ đừng cởi nữa, tại vì cởi ra là khán giả tập trung 100% năng lượng của họ vô cái đang phơi ra đó, thành ra quên phắt mất cái mạch kể chuyện của nghệ sĩ.

- Sân khấu xấu quá, sàn loang lổ, tường và trần nhà rách rưới, dân điện giăng nhùng nhằng. Giá mà màn này diễn trên sân khấu đèn đuốc cẩn thận thì có phải nghệ thuật hơn không. Tui lại thấy ban tổ chức làm sân khấu quá hợp lý với chủ đề trình diễn. Cái loang lổ nhùng nhằng kia chẳng phải là Việt Nam ngày nay sao? Trình diễn về sự trói buộc của các quy tắc, khát khao đến với tự do...trong cái nền đó chẳng phải là một thông điệp nữa sao?

- Ý tưởng chả có gì mới, trình diễn thô thiển. Mà mọi người dập em Diệu Hà tơi bời thông qua hơn tá tấm hình chụp từ 1 góc duy nhất mô tả lại cuộc trình diễn. E hèm, y như bình luận phim sau khi xem trailer vậy. Tui đồ rằng ở đó xem trực tiếp thì hiệu quả sẽ rất khác so với ngồi nhà coi mấy tấm hình.

Thôi, túm lại là tui thấy em này dám chơi dám chịu. Vậy là ngon rồi, chứ người ta thì nói không hà, có dám làm gì đâu.

2 tháng 9, 2010

Có nên đầu tư lập viện nghiên cứu cao cấp về toán?

Cùng với sự kiện GS. Ngô Bảo Châu được trao huy chương Fields, nhà nước đã có kế hoạch thành lập viện toán cao cấp và thông qua chương trình đầu tư trên 600 tỷ đồng để đưa ngành toán lên thứ 40 trên thế giới. Phần nội dung và giải pháp cho thấy chương trình này chú trọng đến việc phát triển đội ngũ nghiên cứu cấp cao về toán, có được ”các đề tài nghiên cứu toán học xuất sắc”, hơn là chú trọng đến việc đổi mới việc dạy và học toán trong nhà trường. Dước góc độ lợi ích xã hội, có nên đầu tư phát triển ngành toán với trọng tâm như thế này?

Có thể nói ngay, nếu mục tiêu là đưa ngành toán Việt Nam đứng thứ 40 trên thế giới thì cách tập trung đầu tư vào đội ngũ nghiên cứu cấp cao về toán là thích hợp. Việc xếp hạng thường được dựa vào số lượng và chất lượng các nghiên cứu công bố trên tạp chí chuyên ngành. Muốn có công bố thì phải đầu tư nghiên cứu đỉnh cao.

Tạm chia đầu tư vào toán học thành 2 hướng: (1) toán học đỉnh cao và (2) toán học cho toàn dân. Nếu được đào tạo toán bài bản và có hiệu quả, học sinh Việt Nam (và là người lớn sau này) sẽ có tư duy lô gích tốt, khả năng hiểu, phân tích, hệ thống vấn đề tốt, sẽ giúp ích nhiều cho công việc của chính họ, dù là nhân viên công nghệ thông tin hay nhà quản lý hay tiểu thương, và cho cả xã hội. Như vậy xã hội đầu tư theo hướng (2) sẽ là đầu tư cho chính bản thân mình. Toán học đỉnh cao sản xuất ra các kết quả khoa học đỉnh cao, đăng trên các tạp chí khoa học hàng đầu thế giới, kết quả đó trở thành tài sản chung của nhân loại. Nhân loại dựa trên các kết quả khoa học đó để chế tạo ra các sản phẩm và dịch vụ phục vụ lợi ích cho con người. Sản phẩm của đầu tư toán học theo hướng (1) là một hàng hóa công (public goods).

Hàng hóa công là hàng hóa mà mọi người đều có thể chia sẻ sử dụng mà không giảm bớt lợi ích của mỗi người và không thể ngăn cản người khác sử dụng được. Đường giao thông nông thôn (ở thành thị cũng vậy) là hàng hóa công, ai đi cũng được, dù người đó có đóng góp tiền để làm đường hay không. Kết quả của công trình toán học cấp cao là một hàng hóa công, một khi được đăng trên tạp chí chuyên ngành, bất cứ người nào, nước nào cũng có thể sử dụng mà không cần trả tiền cho người cung cấp nó. Vấn đề của hàng hóa công là người ta có thể hưởng lợi mà không cần trả tiền (free ride), cho nên sẽ dẫn đến việc không ai cung cấp hàng hóa công. Cung cấp làm gì khi không thu lại được chi phí bỏ ra? Vấn đề sẽ được giải quyết bằng 2 cách: nhà nước thu thuế và từ đó cung cấp hàng hóa công hoặc/và tư nhân tự nguyện đóng góp cung cấp hàng hóa công.

Ở mức độ thế giới, không có nhà nước thế giới để thu thuế các quốc gia và cung cấp hàng hóa công mang tính toàn cầu, chẳng hạn giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, hay tài trợ các công trình nghiên cứu toán học lý thuyết cấp cao. Có bác nông dân nghèo nào tự đứng ra làm một con đường trải nhựa cho bà con (giàu và nghèo) đi miễn phí? Ngay cả người giàu cũng hiếm khi làm như vậy. Việt Nam đầu tư sản xuất các kết quả nghiên cứu toán cấp cao để cho thế giới dùng miễn phí?

Theo suy luận như trên, vì thế giới không có 1 nhà nước chung nên sẽ không nước nào đầu tư vào toán lý thuyết cấp cao. Mình sẽ không tốn công đầu tư để cho các nước khác dùng chùa. Tuy nhiên thực tế các trung tâm toán học cao cấp vẫn tồn tại. Các trung tâm này nằm chủ yếu ở Mỹ, Pháp, và các nước phát triển khác. Tại sao?

Khi không tồn tại nhà nước toàn cầu cung cấp hàng hóa công, chúng ta xem xét kênh cung cấp tư nhân tự nguyện đóng góp (voluntary contribution to public goods). Vấn đề là làm sao để các cá nhân có thể hợp tác với nhau, cùng nhau cung cấp hàng hóa công, càng ít người xài chùa càng tốt. Các nghiên cứu* về kênh cung cấp này cho thấy có nhiều lý do để cung cấp tự nguyện hàng hóa công như: nhu cầu đối với hàng hóa công lớn, bày tỏ khía cạnh đạo đức thông qua hành vi đóng góp như lòng vị tha, sự quan tâm đến xã hội, có lòng tin (trust) rằng người khác cũng hợp tác, hành vi tuân theo đám đông (conformity), có qua có lại (reciprocity) hay hợp tác có điều kiện (conditional cooperation). Trong các động cơ đóng góp tự nguyện này, nếu xét khía cạnh toàn thế giời, có lẽ nhu cầu đối với bản thân hàng hóa công là động lực đóng góp lớn nhất. Nghĩa là người ta sẽ tự nguyện đóng góp nhiều nếu người ta có nhiều lợi ích từ hàng hóa công đó. Giống như làm thủy lợi nội đồng, bác nông dân nào có nhiều ruộng đất sẽ là người tích cực nhất tham gia nạo vét kênh mương chung. Các nước Mỹ và Pháp sẽ là những nước hưởng lợi nhiều nếu có các công trình toán học hỗ trợ cho các phát minh Mỹ thuật kế tiếp. Họ có sẵn cơ sở, nguồn lực để phát ứng dụng kết quả nghiên cứu toán học. Trình độ phát triển của Việt Nam còn quá thấp để có thể ứng dụng ngay các kết quả nghiên cứu toán học lý thuyết để tạo ra phúc lợi cho xã hội.

Điều đó cho thấy, tính toán một cách duy lý, vì lợi ích của chính người Việt Nam, Việt Nam không nên tự nguyện đóng góp ”hàng hóa công” toán học cấp cao cho toàn thế giới. Nên dành khoản ngân quỹ có hạn đầu tư cho nền toán học toàn dân thì hợp lý hơn, vì lợi ích của chính người dân mình.

_____________________________________________________
*Ledyard, J. 1995. “Public goods: A survey of experimental research” in Kagel, J. and A. Toth (eds.), Handbook of Experimental Economics, Princeton University Press, Princeton, NJ.

29 tháng 8, 2010

Lảm nhảm về 1 nghiên cứu xã hội học

Thú thật đây là lần đầu tiên tui đọc toàn bộ một nghiên cứu xã hội học đăng trên tạp chí chuyên ngành. Đó là bài của một bạn đang làm nghiên cứu sinh ngành xã hội học tại University of California, Berkeley, nghiên cứu về lao động tình dục ở Tp. HCM. Bạn ấy dành khoảng 7 tháng trong 2 năm 2006-2007 gặp gỡ nói chuyện phỏng vấn được 54 người bán và 26 người mua. Bạn ấy muốn xem "lao động cảm xúc" (emotional labor) khác nhau như thế nào trong 3 cấp thị trường mại dâm: rẻ tiền - trung bình - cao cấp. Lao động cảm xúc là bán cảm xúc để lấy tiền. Kết quả nghiên cứu cho thấy lao động cảm xúc trong công nghiệp tình dục ở Tp.HCM là khác nhau trong 3 cấp thị trường này. Một số nhận xét:

1. Bài viết hấp dẫn, đọc khác hẳn với đọc bài báo khoa học ngành kinh tế học. Như đọc bài tường thuật có trộn lẫn khái niệm khoa học.

2. Có vẻ như nghiên cứu này chọn mẫu không ngẫu nhiên, và như vậy dẫn đến thiên lệch chọn mẫu. Thông tin từ mẫu có thể không đại diện cho tổng thể. Tác giả không hề đề cập đã chọn mẫu phỏng vấn như thế nào. Rất có thể những người đồng ý nói chuyện với tác giả (đặc biệt là người mua) là những người có đầu óc cởi mở (vì thế họ mới đồng ý nói chuyện với 1 người ngoài), như thế dễ cho tác giả phỏng vấn, nhưng có thể hoàn toàn không đại diện cho kinh nghiệm cũng như ý kiến của đám đông. Tôi mường tượng nếu làm nghiên cứu, mình sẽ làm như thế này: chẳng hạn dãy quán gội đầu massage có 20 quán, sẽ chọn ngẫu nhiên 1 quán; giả sử trong quán đó có 5 cô tiếp viên, sẽ chọn ngẫu nhiên 1 cô và hỏi chuyện cô ấy. Nếu không thu thập được thông tin thì làm lại quá trình lấy mẫu từ đầu, đến khi nào được thì thôi.

Tác giả cũng không cho biết phân loại thị trường rẻ tiền, trung bình và cao cấp theo tiêu chí nào. Chẳng hạn, tác giả lấy "việt kiều" làm đại diện cho thị trường cao cấp. Có vẻ như điều này xuất phát từ việc tác giả nói chuyện được với một anh việt kiều ở chung khách sạn, và được anh ta kể cho các kinh nghiệm mua cảm xúc. Tôi thì đồ rằng đại gia trong nước chiếm lĩnh thị trường cao cấp, chứ không phải các bác việt kiều.

3. Tác giả kể lại các tình huống thực, mặc dù có thể đã đổi tên đối tượng tham gia, nhưng cũng đã để lộ nhân thân của họ ra công chúng. Tác giả kể về một cặp vợ chồng Việt - Mỹ. Cô vợ là gái bán hoa, gặp chồng tương lai ở quán bar. Anh Mỹ đem lòng yêu, cưới cô này, có con với cô, còn chu cấp tiền cho gia đình cô. Trong thời gian chờ xét hồ sơ sang Mỹ, cô này vẫn đi "làm việc" vì lo lỡ không được xét cho đi, cô vẫn có nguồn thu nhập dự phòng. Câu chuyện như thế này thì dù đổi tên nhân vật, những người gần họ vẫn sẽ nhận ra, anh chồng Mỹ cũng sẽ nhận ra, nếu đọc được nghiên cứu này. Không biết vợ chồng này có cho phép tác giả kể câu chuyện của họ chưa. Nếu chưa, liệu bài nghiên cứu cũng như tạp chí cho đăng có vi phạm đạo đức nghiên cứu?

4. Tôi không rành về các nghiên cứu xã hội học. Cảm giác đọc bài này là quá ít lý thuyết được nêu ra và kết nối để giải thích hiện tượng. Chỉ thấy dẫn gần như duy nhất lý thuyết về "emotional labor" như là lý thuyết nền để nghiên cứu. Không thấy dùng lý thuyết nào khác để phân biệt sâu hơn các hiện tượng quan sát được, chẳng hạn như, ranh giới giữa cảm xúc thực và cảm xúc giả tạo.

20 tháng 8, 2010

Lượng hóa chủ nghĩa bình quân ở Việt Nam

Bác Nguyễn Quang Lập viết thế này trong bài về chủ nghĩa bình quân ở Việt Nam nhân sự kiện GS Nguyễn Bảo Châu được huy chương Fields:

"...Tất nhiên Ngô Bảo Châu về nước dạy không phải vì 5 triệu đồng kia nhưng với một đồng lương như thế trả cho một tài năng toán học thì thật là xấu hổ, nó bĩ mặt dân Việt vốn là dân luôn coi trọng tài năng. Nhà nước ta không bao giờ tiếc tiền đối với nhân tài cả. Chỉ có chúng ta tự làm khổ nhau, ngáng chân nhau vì chủ nghĩa bình quân và thói đố kị. Tao giáo sư mày cũng giáo sư, thậm chí tao còn ông nọ bà kia, mày chẳng qua chỉ là giáo sư quèn, tại sao lương mày lại cao hơn cả lương tao. Đằng sau những giải thích đổ lỗi cho cơ chế liệu có tâm lý đó không? Chắc có."

Bác Nguyễn Quang Lập nói về chủ nghĩa bình quân đúng quá. Bài nghiên cứu này đăng trên Journal of Development Studies đo lường "chủ nghĩa bình quân" của người Việt Nam (mẫu là nông dân), tính ra chỉ số ưa thích bình quân là 0.28. Chỉ số này càng thấp thì càng thích sự quân bình về thu nhập giữa mình và người khác.

Chỉ số ưa thích bình quân này ở Thụy điển là từ 0.59 - 0.71, ở Trung quốc là từ 0.42 - 0.51, ở Costa Rica là 0.45.

Cách đo lường chỉ số ưa thích bình quân này hơi phức tạp một chút, nhưng căn bản là thế này: người tham gia nghiên cứu sẽ chọn lựa giữa 2 phương án A và B.

Phương án A: thu nhập của mình 2.5 triệu đồng, thu nhập của những người khác là 3 triệu đồng.

Phương án B: thu nhập của mình là 2.3 triệu đồng, thu nhập của những người khác là 2 triệu đồng.

Nếu bạn không thích bình quân, nghĩa là quyết không theo chủ nghĩa bình quân, bạn sẽ chọn phương án B, vì lúc này mặc dù bạn bị thiệt 200.000 đồng so với nếu chọn phương án A, bạn vẫn có thu nhập cao hơn trung bình của những người khác.

Tại sao chủ nghĩa bình quân ở nước ta lại nặng nề như vậy? Làm cách nào để thoát khỏi nó (hay các yếu tố nào làm tăng chỉ số ưa thích bình quân)?

Làm nghiên cứu. Làm nghiên cứu.

11 tháng 5, 2010

Cô Tư và thông tin phi đối xứng

Cô Tư cho ví dụ hay về thông tin phi đối xứng (asymmetric information). Nói về thông tin phi đối xứng là nói về tình trạng giữa 2 chủ thể giao dịch, một bên có nhiều thông tin để ra quyết định hơn bên kia. Ví dụ như trong đàm phán hợp đồng lao động giữa ngừa chủ và nhân viên, nhân viên biết rõ năng lực của mình còn người chủ thì không có thông tin đầy đủ về năng lực của nhân viên. Hoặc trong công việc, người chủ khó có thể biết nhân viên có làm việc hết mình hay không. Phi đối xứng thông tin gây ra "moral hazard" (trốn việc hay xài chùa hàng hóa công) và "adverse selection" (hàng xấu đẩy hàng tốt ra khỏi thị trường). Để vượt qua chướng ngại này, cần thiết kế hệ thống khuyến khích, các hợp đồng, ra tín hiệu (signaling) sao đó để khỏa lấp khoảng trống về thông tin,

Cô Tư đã cho ví dụ rất hay về việc ra tín hiệu trong điều kiện thông tin phi đối xứng.

10 tháng 5, 2010

Đàn bà và đàn ông Việt Nam

Thích bài phỏng vấn này với Phan Đăng Di, đạo diễn phim Bi, đừng sợ!

Trích:

Hỏi: Phim của anh tách bạch nhóm nhân vật nam và nhóm nhân vật nữ. Một bên là những người đàn ông "yếu đuối" (quyền uy của người ông bệnh tật, nghiện rượu của ông chồng (say xỉn), măng trẻ của cậu con trai) và bên kia là những người đàn bà tìm cách tự giải phóng mình ra khỏi những ham muốn của đàn ông. Anh có nghĩ là ta có thể hiểu rõ hơn về thực trạng của một xã hội qua những quan sát về thân phận người phụ nữ trong xã hội đó ?

Trả lời: Điều đó là hiển nhiên, chí ít thì vì phụ nữ họ là một nửa thế giới, và hơn thế là một nửa mạnh mẽ. Tôi tin điều này qua những gì tôi thấy được từ phụ nữ Việt Nam, họ mạnh không phải vì họ độc lập với nam giới, hay họ nắm quyền điều khiển xã hội, họ mạnh vì có những niềm tin giản dị và nghiêm túc hơn với cuộc sống, Sự nhẫn nại của họ trước những người đàn ông mà đa phần là không trung thực, thiếu tự tin và dễ dàng ngả theo những khoái cảm tầm phào cũng cho thấy họ vững vàng hơn đàn ông về mặt tinh thần... Trong một xã hội nhiều biến động như xã hội Việt Nam (chiến tranh, thiên tai, sự thay đổi liên tục các tín điều do đàn ông vẽ nên rồi lại xóa đi…) mà rồi cuối cùng mọi chuyện vẫn trở nên ổn thỏa được có lẽ là nhờ vào tinh thần bền bỉ chịu đựng và đức hy sinh của người đàn bà. Chính trong tinh thần đó, họ lặng lẽ học cách chấp nhận cuộc sống thường thì không dễ dàng, và chấp nhận những người đàn ông, thường là yếu đuối.

5 tháng 5, 2010

Vốn xã hội và tôn giáo

Vừa đọc được một nghiên cứu khá thú vị về mối tương quan giữa tôn giáo và lòng tin (1 dạng vốn xã hội), chợt nhớ đến bài này trên VNN đã lâu, khi mà tác giả viết "Tôn giáo cũng góp phần đáng kể trong việc hình thành vốn xã hội". Sau đó tôi có viết 1 bài cho rằng nhà báo cần thận trọng hơn khi viết những nhận định, bình luận của mình về một vấn đề nào đó mà mình không có chuyên môn sâu. Nghiên cứu này đưa ra bằng chứng khá thuyết phục bác bỏ nhận định trên của nhà báo.


Trục tung đại diện thước đo lòng tin, nước nào nằm càng trên cao thì càng có nhiều vốn xã hội. Trục hoành đại diện cho lòng tin tôn giáo, nước nào nằm càng về bên phải thì càng có nhiều người tin về vai trò quan trọng của tôn giáo trong cuộc sống của mình. Bạn xem thêm trong bài nghiên cứu để thấy xử lý thống kê để kiểm soát các tác động khác cũng khẳng định kết quả này.

Và bạn thấy tương quan nghịch giữa 2 khái niệm này rồi đó. Càng nhiều niềm tin tôn giáo thì lòng tin (vốn xã hội) càng thấp.

(Bổ sung: Một bạn email cho tôi đặt vấn đề về việc suy diễn kết quả thống kê từ tổng thể về cá biệt. Đây là bình luận khá sắc sảo.

Tôi nghĩ rằng nghiên cứu trong kinh tế nói chung, và các nghiên cứu cross-country cụ thể, cho ra kết quả để phục vụ tổng thể, mang tính trung bình. Nói tôn giáo tác động nghịch đến lòng tin thì chỉ đúng với tính chất tổng thể của vấn đề, nhưng có thể không đúng với một trường hợp cá biệt nào đó. Cho nên khi tôi dùng kết quả nghiên cứu về tổng thể để bác bỏ nhận định riêng về Việt Nam thì cũng không khoa học lắm. Đáng lẽ tôi phải viết là tôi biết kết quả chung của thế giới là như vậy, nếu tác giả muốn khẳng định tôn giáo có vai trò tích cực trong hình thành vốn xã hội ở Việt Nam thì tác giả hãy chỉ ra một nghiên cứu cụ thể ở VN chứng minh điều này. Còn nếu không chỉ ra được, coi như chúng ta không biết gì cả về mối quan hệ giữa tôn giáo và vốn xã hội ở VN, tuy nhiên xác suất để mối quan hệ này là nghịch lớn hơn xác suất để mối quan hệ là cùng chiều)
____________________

Bài nghiên cứu khá thú vị, nhất là phần 2 khi các tác giả tổng hợp các nghiên cứu trước đó.

4 tháng 5, 2010

Căng thẳng nhưng lạc quan

Doanh nhân Việt Nam nằm trong nhóm doanh nhân cảm thấy áp lực công việc căng thẳng nhất. Báo cáo của GrantThornton tường thuật 72% số doanh nhân Việt Nam cho rằng áp lực công việc năm nay nặng nề căng thẳng hơn so với năm ngoái. Đội sổ là Trung Quốc, khi chỉ số này là 76%. Doanh nhân ở Thụy điển có vẻ hạnh phúc nhất, khi chỉ có 23% cho rằng mình bị căng thẳng hơn năm rồi.

Báo cáo cũng cho rằng sự căng thẳng của doanh nhân có tương quan với GDP và số ngày nghỉ trong năm. Càng giàu và đi nghỉ nhiều thì càng cảm thấy ít căng thẳng.

Một báo cáo khác của GrantThornton cho thấy doanh nhân Việt Nam cực kỳ lạc quan về triển vọng của nền kinh tế, vượt xa các đồng nghiệp trong vùng châu Á - Thái Bình Dương. Chẳng hạn trong năm 2009, là năm tồi tệ nhất về kinh tế, thì vẫn có số doanh nhân Việt Nam lạc quan nhiều hơn số bi quan là 31%, trong khi chỉ tiêu này ở các nước châu Á - Thái Bình Dương là 2%.



Giải thích hiện tượng này như thế nào nhỉ?

26 tháng 4, 2010

Huy chương John Bates Clark năm nay

Esther Duflo thắng giải John Bates Clark năm nay. Giải này dành cho các nhà kinh tế học dưới 40 tuổi, được mệnh danh là "baby Nobel".

Cô Duflo 37 tuổi, làm tại MIT, chuyên trị về kinh tế phát triển và kinh tế học thực nghiệm, nhánh thực nghiệm tự nhiên (randomized field experiments). Gần đậy cô này tập trung vào việc đánh giá tác động kinh tế của các dự án công. Chẳng hạn nhà nước đầu tư vào 1 dự án y tế cộng đồng tăng cường vitamin A, B, C... cho dân nghèo một tỉnh nào đó ở đồng bằng Sông Cửu Long. Sau khi hoàn thành dự án, nhà mình làm 1 cái lễ báo công báo cáo dự án sau 3 năm đã làm cho dân sáng mắt sáng lòng hoàn toàn. Tình cờ cùng thời gian đó cái cô Duflo này lại làm một thực nghiệm ngẫu nhiên này ở ĐBSCL, rất có thế cổ viết báo cáo nói rằng bằng các phương pháp thiết kế thực nghiệm thừa số, thu thập số liệu ngẫu nhiên, phân tích khác biệt trong khác biệt v.v. rất khoa học, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng dự án đầu tư vitamin A kia chẳng làm cho dân sáng mắt sáng lòng gì sất, mà cái sự sáng mắt sáng lòng có là do trong thời gian đó, người dân tỉnh nằm trong dự án bỗng có phong trào trồng cà chua xuất khẩu, mà cái luồng sông Hậu lại nạo vét chưa xong nên không chở cà chua ra thị trường thế giới được, nên dân mình đành ăn cà chua trừ cơm. Đại loại cô ấy sẽ đánh giá đầu tư công như thế này như thế kia thì có ích hay không, hay chỉ phí tiền thuế của dân.

Năm 2009, giải Nobel kinh tế học được trao cho bà Elinor Ostrom (và Oliver Wiliamson). Ostrom nghiên cứu về thể chế và cộng đồng, dùng công cụ kinh tế học thực nghiệm. Năm nay 2010, cô Esthor Duflo được trao giải "baby Nobel". Duflo nghiên cứu về phát triển và cũng dùng công cụ kinh tế học thực nghiệm.

Bạn thấy gì chung chưa? Nữ tính thiêng liêng - kinh tế học thực nghiệm - cộng đồng và phát triển.

Giáo sư Văn Như Cương và bài báo khoa học

Giáo sư Văn Như Cương có 1 bài viết có tựa đề ”Chạy theo bài báo khoa học” trên báo Người Lao Động. Đại ý của giáo sư là không nên ”chạy theo bài báo khoa học”, nếu 1 giáo sư mà không có bài báo khoa học đăng trên các tạp chí quốc tế thì vẫn không sao, miễn giáo sư đó vẫn đóng góp tốt cho nhiệm vụ đào tạo.

Tôi không đồng ý với ý kiến của giáo sư Văn Như Cương.

Giả sử đào tạo nhân lực là nhiệm vụ quan trọng nhất của các trường đại học, thì năng lực, kiến thức khoa học của giảng viên đại học về chuyên ngành mình giảng dạy là yếu tố quan trọng nhất quyết định kết quả đào tạo. Người thầy phải hiểu rõ, hiểu sâu chủ đề mình đang giảng dạy. Các yếu tố khác như phương pháp sư phạm, thái độ giảng dạy tuy quan trọng nhưng kiến thức của người thầy phải là yêu cầu đầu tiên và chủ yếu nhất.

Vậy người thầy xây dựng năng lực khoa học, tích lũy kiến thức cho mình như thế nào, trong điều kiện khoa học thế giới luôn biến đổi nhanh chóng? Cách tốt nhất là làm nghiên cứu khoa học một cách có chất lượng, nghĩa là kết quả nghiên cứu khoa học phải được công bố quốc tế. Người thầy học bằng cách làm nghiên cứu khoa học. Một người đã từng tham gia nghiên cứu, viết bài để cố gắng có mặt trên các tạp chí khoa học quốc tế sẽ thấy rằng kiến thức chuyên môn của mình tăng lên rất nhiều so với chỉ ngồi ôm mấy cuốn sách để đọc chay.

Giáo sư Văn Như Cương cho rằng ”giáo sư ngạch giảng dạy cần xét đến thành tích về đào tạo như số lượng sinh viên được đào tạo, số các sách tham khảo, chuyên đề đã công bố, số luận văn cao học, luận văn TS đã hướng dẫn...”. Nếu ”giáo sư ngạch giảng dạy” này không làm nổi một nghiên cứu khoa học đăng ở 1 tạp chí khoa học chuyên ngành trung bình của thế giới, thì làm sao viết được sách tham khảo, và hướng dẫn luận văn cao học và tiến sĩ? Sách tham khảo ở trình độ đại học phải được viết từ kinh nghiệm nghiên cứu. Giáo sư không có năng lực nghiên cứu mà càng giảng dạy được nhiều sinh viên, viết được nhiều sách, đào tạo được nhiều thạc sĩ, tiến sĩ, tôi e rằng càng tai hại cho đất nước.

Nghiên cứu khoa học không chỉ để phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học là để xây dựng nền khoa học cho đất nước. Một nền tảng khoa học vững chắc sẽ giúp sản sinh ra các các ứng dụng, các chính sách hợp lý và nhanh chóng. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế học, tôi cho rằng phần lớn các chính sách kinh tế hiện nay, như tăng giảm lãi suất, đều không có cơ sở khoa học, đều không dựa vào gì cả, đều như trò chơi đánh bạc 5 ăn 5 thua, bởi vì chúng ta không có các nghiên cứu thực sự chất lượng về các khía cạnh của nền kinh tế. Bác sĩ không làm xét nghiệm, không chụp X-Quang, nghĩa là không biết các chỉ số đo lường về máu, về vận hành cơ thể, không hiểu bệnh nhân thì sao bốc đúng thuốc được?

Nghiên cứu khoa học là quan trọng, vậy tại sao cứ nhất thiết lại phải là bài báo khoa học quốc tế? Rất đơn giản, bài báo khoa học được đăng trên tạp chí quốc tế sẽ là bài báo đạt tiêu chuẩn tối thiểu của một nghiên cứu khoa học, vì phải trải qua quá trình cạnh tranh với các bài báo khác để được đăng. Chỉ có thể xuất hiện khi đạt được một mức chất lượng nào đó được thế giới công nhận. Các nghiên cứu khoa học đăng ở trong nước thường được kiểm định bởi các ”hội đồng khoa học”. Bàn về chất lượng làm việc của các ”hội đồng khoa học” này vượt quá giới hạn bài viết này, tuy nhiên tôi có thể khẳng định nhiều kết quả nghiên cứu được các hội đồng này thông qua với kết quả ”hoàn thành xuất sắc” thường không có nhiều ý nghĩa khoa học.

Lịch sử để lại cho chúng ta một nền khoa học và hệ thống giáo dục nhiều yếu kém và có khoảng cách rất xa với thế giới. Để khắc phục, có rất nhiều điều phải làm, và điều quan trọng cần làm đầu tiên là những người đang có vai trò quan trọng, đang có tiếng nói trong hệ thống đó biết thu mình đứng qua một bên, mở đường cho thế hệ trẻ vươn mình ra với thế giới.

23 tháng 4, 2010

Biên tập viên của Journal of Public Economics


(Nguồn: http://www.economics.harvard.edu/faculty/chetty)

Ông này là Raj Chetty, editor của Jounal of Public Economics, tạp chí được xếp loại A (sau vài tờ loại AA như AER, QJE...) từ tháng 01/2009.

Ông này sinh năm 1979.

22 tháng 4, 2010

Linh tinh...

The curious task of economics is to demonstrate to men how little they really know about what they imagine they can design. -- F.A. Hayek

21 tháng 4, 2010

Linh tinh...

1. Báo Lao động có bài viết về chuyện các thầy cô giáo phổ thông phải đi mua "sáng kiến kinh nghiệm" ở các tiệm photocopy để nộp lấy thành tích tính điểm thi đua.

2. VNN có bài của bạn Nguyễn Kiều Dung, NCS ngành kinh tế ở Hoa Kỳ, nêu sáng kiến của bạn về việc thành lập các CLB "Sáng tạo kiên trì" cho học sinh, nơi học sinh có thể làm bất cứ gì từ cắt dán, kể chuyện, làm mô hình robot v.v.

3. Ủng hộ ý tưởng của bạn Dung. Nhưng mà bạn ơi, sao bạn lại đề nghị cộng điểm thưởng cho việc sáng tạo của học sinh? Sao không để sáng tạo của học sinh là một trò chơi thuần túy nhỉ?

4. Chắc bạn, cũng như các quan chức giáo dục - những người có thể không học kinh tế học, đều biết rõ vai trò của "incentive" trong việc tạo ra "outcome".

Với (1), tôi nghĩ cần tìm hiểu thêm hoạt động của "incentive" trong một thể chế "institution" đặc thù Việt Nam. Tôi đồ rằng sự tương tác của 2 yếu tố này tạo ra những outcome không mong muốn, khác hẳn với kết quả của các mô hình cổ điển.

Với (2), tôi đoán có thể khuyến khích (incentive) tạo ra hiệu ứng phụ không tốt (crowding out effects).

20 tháng 4, 2010

Chính sách tiền tệ linh hoạt là gì vậy hở trời?

"Chính sách tiền tệ linh hoạt" là gì vậy hả trời? Ai biết giúp tui một cái định nghĩa hay một cái mô tả chính quy về nó cái coi.

Tui có đọc báo thì thấy nói đó là chính sách tiền tệ lúc nới lúc thắt (lượng tiền), cho nên gọi là linh hoạt. Cái cách này thì quá hay và phù hợp với Việt Nam: anh Ba trên bộ Chính trị biểu ê mày giá cả tăng quá dân nó biểu tình kìa, dạ dạ để em thắt; mấy đại gia doanh nhân rỉ rả thò gậy lẫn cà rốt đề nghị tăng trưởng, dạ thưa để tôi nới. Mình quyết là "linh hoạt" rồi mừa, lúc thắt lúc nới thoải mái hen.

16 tháng 4, 2010

Linh tinh...


(Nguồn: the Economist, số nào quên mất tiêu rồi, bổ sung sau vậy)

Nếu bạn là nhà kinh tế học, bạn thấy mình là ai trong hình này? Tím, xanh dương, hay xanh lá cây?

Nếu bạn là người trí thức Việt Nam, bạn thấy mình là ai trong hình này? Tím, xanh dương, hay xanh lá cây, hay...?

14 tháng 4, 2010

Kinh tế học của bằng đại học về Kinh tế chính trị

Nghe giang hồ đồn ĐHKT chuẩn bị mở lớp Văn bằng 2 Kinh tế Chính trị, nghĩa là những người đã có bằng ĐH rồi thì có thể tối tối đến hoặc không đến giảng đường, sau 2 năm sẽ có 1 bằng đại học nữa. Mà bằng này thì được xem là tương đương với Cao cấp lý luận chính trị.

Tui ủng hộ quyết định mở lớp này. Quyết định này hoàn toàn đúng theo chủ trương của bộ trưởng bộ GD-ĐT về đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường. Mà đã là đại học chuyên về kinh tế thì ta phải làm thế nào để tổ chức phi vụ này thật khoa học và bài bản kinh tế học. Tui thử làm quân sư quạt mo xem sao.

Một thị trường có 3 yếu tố chính: cầu, cung và giá cả.

- Cầu: người mua dịch vụ có sự ưa thích (preferences) của họ đối với sản phẩm. Nghĩa là họ phải cân nhắc xem mua và dùng sản phẩm thì đem lại hữu dụng cho bản thân như thế nào, có xem xét tới điều kiện giới hạn ngân sách nữa. Cụ thể hóa của sự ưa thích này là giá sẵn lòng trả (willingness to pay) của họ đối với sản phẩm.

- Cung: ta độc quyền cung rồi - a monopolist. Do đó ta có thể định giá độc quyền. Dĩ nhiên cung cấp sản phẩm phải tốn chi phí. Ta cần định giá sản phẩm sao cho có thể tối đa hóa thu nhập ròng (nghĩa là tối đa hóa khoản (giá*số học viên - chi phí trên 1 học viên*số học viên)). Nhớ là số học viên lại là một hàm số của giá.

Cần lưu ý hàng hóa trong trường hợp này là hàng hóa dùng lâu bền - durable good, người mua chỉ mua một lần, nếu đã mua hôm nay thì mai không mua nữa. Theo lý thuyết, nhà cung cấp độc quyền cạnh tranh với chính mình: nếu bán hôm nay thì sẽ giảm lượng cầu vào ngày mai.

Vấn đề của ta, nhà cung cấp, là xác định số học viên 1 khóa học và giá (học phí). Có thể có bạn cho rằng học phí được quy định bởi bộ GD-ĐT. Nhưng không sao, đó chỉ là khoản thu chính thức, ta có nhiều cách để đạt được mức giá ta muốn (các trường phổ thông cơ sở còn biết cách số vàng thì ta đại học hà cớ gì không biết nhiều cách hay hơn).

Số học viên 1 năm học không thể quá lớn, mà phụ thuộc vào năng lực cung cấp của ta nữa (số ghế ngồi, số giáo viên, giới hạn của Bộ). Ta cứ lấy mức tối đa mà Bộ cho phép tuyển sinh. Bây giờ cái khó là đặt giá độc quyền đây.

Nhưng để đặt được giá độc quyền để tối đa hóa lợi nhuận, ta phải biết được giá sẵn lòng trả (WTP) của học viên. Thông thường trên thị trường cạnh tranh, WTP chính là giá thị trường. Ví dụ một chương trình đào tạo MBA thu 4000 USD/học viên/năm học thì con số này chính là WTP của học viên. Nhưng vấn đề khó ở đây là ta chưa có thị trường đào tạo VB2 Kinh tế chính trị, cho nên chưa có giá thị trường, cho nên không thể suy ra WTP được.

Lúc này phải xác định giá sẵn lòng trả bằng phương pháp dùng thị trường giả định (hypothetical market). Một trong những kỹ thuật đánh giá có thể dùng được là kỹ thuật "thực nghiệm lựa chọn" (choice experiment). Ta sẽ thiết kế các chọn lựa (choice set) khác nhau, mỗi choi set sẽ có 1 số phương án (alternatives), mỗi phương án lại có những mức đặc tính khác nhau (attribute levels). Ta phải thực hiện thiết kế thực nghiệm (experimental design) sao đó để khu thu thập số liệu xong, ta có thể dùng multinomial models để phân tích và tính toán ra WTP cho từng đặc tính và cho cả khóa học văn bằng 2 này.

A, nhớ ra rồi, hình như ĐHKT chuẩn bị mở lớp "Phương pháp nghiên cứu định lượng 3", mà nội dung lại dạy vể phương pháp thiết kế thực nghiệm, thực nghiệm lựa chọn v.v. Sao trường không nhân đây đề nghị thầy phụ trách cho cả lớp làm đề án tính toán giá sẵn lòng trả cho VB 2 Kinh tế chính trị nhỉ? Vừa có nghiên cứu tình huống thực tế cho lớp học, vừa có sản phẩm ứng dụng phục vụ việc ra quyết định (về giá độc quyền) của trường.

(Một sản phẩm phụ của nghiên cứu này sẽ là so sánh xem giá sẵn lòng trả cho bằng ĐH về kinh tế chính trị với bằng đại học về chuyên ngành khác, ngân hàng chẳng hạn).

Khả năng nhậu và kết quả học tập hồi nhỏ

Làm thế nào để biết hồi nhỏ bạn học giỏi hay không, giả sử bạn làm mất sổ liên lạc rồi? Hai nhà nghiên cứu Francesca Borgonovi và Maria C Huerta thuộc London School of Economics vừa mới cho ra lò bản báo cáo đăng trên Social Science & Medicine sẽ giúp bạn giải quyết câu hỏi này.

Sau một hồi phân tích thông kê với các kỹ thuật phức tạp như Latent Class Analysis và Multinomial Logit để bóc tách dữ liệu và các mối quan hệ, các tác giả chỉ ra rằng:

Hồi nhỏ lúc 5 và 10 tuổi, ai mà có kết quả học tập tốt thì sẽ có xu hướng sau này nhậu giỏi.

Tui thấy suy ngược lại cũng được: ai nhậu giỏi bi giờ thì hồi nhỏ chắc học giỏi!!!

Tui thì nghĩ mình hồi nhỏ chắc học cũng khá.

13 tháng 4, 2010

Nghĩ ngợi linh tinh

Nhân đọc bài "Điểm thấp" của bạn 3003! có 1 số quan sát thế này:

(bạn 3003! băn khoăn về việc những ngành quan trọng đối với xã hội như Luật, Kinh tế học, giáo dục thì chỉ toàn nhận những sinh viên có điểm thấp hơn các ngành khác như ngân hàng, Kế toán, ngoại thương v.v. Sinh viên chọn ngành này ngành kia là do điểm vào ngành thấp hay cao, không phải vì do thích hay không thích)

1. Sản phẩm của các trường đại học tốt hay không là do sinh viên của họ có tốt hay không, chứ không phụ thuộc vào chất lượng giáo viên. Một thực nghiệm tự nhiên (natural experiment) chỉ ra điều này: chất lượng sinh viên ra trường của ĐH Ngoại thương thường được coi là cao hơn sinh viên của ĐH Kinh tế. Phần lớn giáo viên dạy ở ĐH Ngoại thương là giáo viên của ĐH Kinh tế. Điểm đầu vào của ĐH Ngoại thương cao hơn của ĐH Kinh tế, nghĩa là chất lượng sinh viên đầu vào tốt hơn.

Giống mấy mô hình tăng trưởng cổ điển, cứ đầu vào tốt thì đầu ra tốt, chẳng cần innovation, R & D gì ráo. Tình hình là món ăn ngon chủ yếu là do nguyên liệu ngon quyết định, trình độ đầu bếp đang ở mức tác động vào món ăn rất thấp.

Sinh viên ra quyết định chọn vào trường nào lại phụ thuộc vào tín hiệu của thị trường việc làm sau khi tốt nghiệp.

2. Bộ trưởng Bộ GD-ĐT từng có định hướng các trường đại học là phải đào tạo đáp ứng nhu cầu của thị trường. Thị trường lên ngôi nhé, là số 1 rồi nhé. Nhưng mà GS bộ trưởng chắc cũng phải rất rành về những "thất bại của thị trường" trong cung cấp hàng hóa công và giải quyết ngoại tác chứ nhỉ.

3. Ngành kinh tế, giáo dục, luật là những hàng hóa công.

4. Hành vi của con người bị dẫn dắt bởi hệ thống khuyến khích. Hệ thống khuyến khích đưa ra tín hiệu như thế nào thì người ta quyết định lựa chọn như thế đấy.

Paul Krugman và kinh tế môi trường

Paul Krugman bàn về kinh tế học biến đổi khí hậu, viết cho đại chúng, dễ hiểu, dùng để dạy học khá tốt. Nói chung là bên Mỹ, mọi công cụ kinh tế dùng để phân tích môi trường và biến đổi khí hậu đã sẵn sàng rồi, chỉ còn chờ các chính trị gia có muốn làm nữa hay không thôi.

Để ở đây, bữa nào rảnh bàn thêm...

Ví dụ đoạn này dùng cho phần mở đầu giới thiệu môn Kinh tế Môi trường thì tuyệt:

"If there’s a single central insight in economics, it’s this: There are mutual gains from transactions between consenting adults. If the going price of widgets is $10 and I buy a widget, it must be because that widget is worth more than $10 to me. If you sell a widget at that price, it must be because it costs you less than $10 to make it. So buying and selling in the widget market works to the benefit of both buyers and sellers. More than that, some careful analysis shows that if there is effective competition in the widget market, so that the price ends up matching the number of widgets people want to buy to the number of widgets other people want to sell, the outcome is to maximize the total gains to producers and consumers. Free markets are “efficient” — which, in economics-speak as opposed to plain English, means that nobody can be made better off without making someone else worse off.

Now, efficiency isn’t everything. In particular, there is no reason to assume that free markets will deliver an outcome that we consider fair or just. So the case for market efficiency says nothing about whether we should have, say, some form of guaranteed health insurance, aid to the poor and so forth. But the logic of basic economics says that we should try to achieve social goals through “aftermarket” interventions. That is, we should let markets do their job, making efficient use of the nation’s resources, then utilize taxes and transfers to help those whom the market passes by.

But what if a deal between consenting adults imposes costs on people who are not part of the exchange? What if you manufacture a widget and I buy it, to our mutual benefit, but the process of producing that widget involves dumping toxic sludge into other people’s drinking water? When there are “negative externalities” — costs that economic actors impose on others without paying a price for their actions — any presumption that the market economy, left to its own devices, will do the right thing goes out the window. So what should we do? Environmental economics is all about answering that question."

9 tháng 4, 2010

Ứng cử viên tổng thống Colombia...

Ông là Antanas Mockus, đang trong chiến dịch tranh cử tổng thống Colombia, và rất có khả năng thắng cử. Trên YouTube có đăng bài nói chuyện của ông tại đại học Michigan về luật, thể chế, hành vi của con người, và khế ước xã hội (social norms), theo tôi có thể so sánh được với Elinor Ostrom về cùng nhóm đề tài này.

Còn nếu bạn muốn nghe bài nói chuyện của lãnh đạo Việt Nam? Cũng có trên YouTube đấy.

8 tháng 4, 2010

Tại sao Bộ GD-ĐT không quyên góp đủ tiền xây tượng?

Thứ trưởng bộ GD-ĐT vừa ký công văn kêu gọi các trường học đóng góp kinh phí xây dựng cụm tượng 10 nữ TNXP Ngã ba Đồng Lộc, một "công trình nghệ thuật" do bộ chủ trì. Đến ngày 24/07/2010 công trình dự định được khánh thành nhưng nay kinh phí vẫn chưa đủ. Tôi sẽ không bàn gì về câu chữ, mặc dù rất muốn khuyên thứ trưởng nên chuyển cái cậu soạn công văn này sang làm công việc khác.

Tôi thử lý giải tại sao bộ lại không thu đủ kinh phí để xây tượng bằng các kết quả nghiên cứu của kinh tế học hành vi và thực nghiệm.

Sự kiện Bộ GD-ĐT kêu gọi đóng góp tự nguyện để xây tượng có thể được đặt vô nhóm chủ đề nghiên cứu "voluntary contribution to public goods". Cụm tượng đài là một hàng hóa công, nghĩa là ai cũng có thể được hưởng lợi ích từ nó, nếu muốn. Đặc điểm của hàng hóa công trong trường hợp cụ thể này là lợi ích của hàng hóa công đối với người đóng góp rất nhỏ, cho nên có thể phân loại tiếp sự kiện này vào nhóm nghiên cứu kinh tế học đóng góp từ thiện - "economics of charitable fundraising".

Tại sao người ta lại đóng góp vào hàng hóa công trong khi có thể dễ dàng xài chùa (free-ride)? Rất nhiều nhà kinh tế đã xây dựng các mô hình lý thuyết chỉ ra rằng người ta đóng góp là vì lòng vị tha - altruism (Becker, 1974), vì đóng góp sẽ làm chủ thể cảm thấy thoải mái về tinh thần - warm glow (Andreoni,1990), vì lý do có qua có lại - reciprocity (Sugden, 1984), vì người ta thích sự công bằng (Fehr and Schmidt, 1999), và vì người ta có khuynh hướng hợp tác có điều kiện - conditional cooperation (Frey and Meier, 2004). Hợp tác có điều kiện nghĩa là người ta sẽ đóng góp tương ứng với những gì người khác sẽ đóng góp. Có câu chuyện kể là khi Bill Gates về thăm mái trường xưa Seattle’s Lakeside Upper School, người ta kêu gọi ông đóng góp quỹ nhà trường, Bill Gates hỏi thế mọi người góp bao nhiêu, thưa ông 75 đô la, à vậy tôi cũng góp 75 đô la.

Kết quả các thực nghiệm kinh tế (economic experiments) cho thấy, trong các phiên đóng góp cụ thể, số tiền đóng góp thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố sau (chủ yếu từ Ledyard, 1995):

- Bản chất của hàng hóa công: nếu hàng hóa công đó đem lại lợi ích biên lớn cho người đóng góp, số tiền đóng góp trung bình sẽ cao hơn so với hàng hóa có lợi ích biên nhỏ. Ở đây, cụm tượng đài Đồng Lộc của Bộ GD-ĐT là hàng hóa có lợi ích biên nhỏ với người đóng góp, nên xu hướng sẽ là khó có khoản thu lớn hơn các công trình khác như thư viện online chẳng hạn, trong đó Bộ kêu gọi đóng góp lập 1 thư viện lưu trữ tất cả các tài liệu nghiên cứu liên quan đến Việt Nam, các yếu tố khác như nhau.

- Số người tham gia đóng góp: Khi số người tham gia đóng góp là lớn, lượng đóng góp của từng người có xu hướng nhỏ và xuất hiện rất nhiều người xài chùa, không đóng góp gì cả. Càng đông người thì xác suất nhận dạng của người đóng càng nhỏ, và người ta có thể lẩn tránh đóng góp. Ở đây, tình huống đóng góp của Bộ là có rất nhiều người tham gia, cả ngàn ngàn trường học, nên người ta có xu hướng free ride nhiều hơn.

- Tính không đồng nhất của người tham gia đóng góp. Nghiên cứu mới nhất của Fischbacher and Geachter trên American Economic Review năm 2010 - số 100 cho thấy khi nhóm đóng góp xuất hiện nhiều người xài chùa, và việc đóng góp được thực hiện nhiều vòng, khoản đóng góp sau này sẽ giảm, do người ta làm theo những người xài chùa, người ta đã không đóng thì mình cũng không đóng, một dạng conditional cooperation. Ở đây, có lẽ kế hoạch của Bộ cũng chịu tác động này: các trường quan sát, sau một thời gian thấy các trường khác không đóng, thì mình cũng không đóng góp.

- Tiền mồi (seed money) hay tác động tuân theo. Lượng đóng góp sẽ tăng khi người đóng góp thấy người khác đóng góp nhiều. Kiểu như bạn hay thấy mấy thùng từ thiện bằng kính, bên trong có nhiều tờ 100USD vậy. Tín hiệu là người ta đóng bao nhiêu đó đấy, vậy bạn định đóng bao nhiêu. Việc này thường được giải thích bằng khái niệm "conformity", hoặc "reciprocity". Không biết Bộ có đặt tiền mồi lúc ban đầu không?

- Công khai tên người và số lượng đóng góp (disclosure): lượng đóng góp vào hàng hóa công sẽ tăng khi ngay từ đầu nhà tổ chức cho biết tên người và lượng đóng góp sẽ được công khai hóa. Đây là nhằm tác động đến "image concern" của đối tượng. Bạn có thấy bảng vàng công đức ở các nhà chùa, nhà thờ không? Không biết lúc bắt đầu chiến dịch thu quỹ, Bộ có nói rõ sẽ công bố tên trường và số lượng đóng góp của họ công khai trên trang nhà của mình không nhỉ?

- Chế tài (bằng tiền hoặc mang tính xã hội - monetary punishment/reward hoặc social punishment). Thực nghiệm nói chung cho thấy khoản đóng góp tự nguyện sẽ cao hơn khi có chế tài, hoặc là phạt tiền, hoặc thưởng tiền, hoặc chế tài kiểu áp lực xã hội (tuy nhiên có vài trường hợp có kết quả ngược do crowding out effects). Với trường hợp chiến dịch góp quỹ của Bộ, biện pháp thích hợp có lẽ là chế tài kiểu áp lực xã hội: nếu không đóng góp, xã hội sẽ coi người đó là thành phần xấu chẳng hạn. Tuy nhiên, điều này lại cần khế ước xã hội mạnh (social norms), một xã hội gắn kết theo những quy chuẩn chung và sẽ loại trừ những ai không theo quy chuẩn chung đó. Nhưng xã hội Việt Nam hiện tại có lẽ chia rẽ nhiều hơn là gắn kết, và những quy chuẩn chung đang dần biết mất. Tượng đài 10 cô gái Đồng Lộc có thể hiện 1 quy chuẩn xã hội chung nào đủ mạnh không?

- Quy chuẩn xã hội (social norm): người ta sẽ đóng góp nhiều nếu người ta cảm thấy đạo đức xã hội không cho phép người ta trốn đóng góp. Nếu đạo đức xã hội mạnh, người không đóng góp vào tài sản công sẽ cảm thấy xấu hổ, tội lỗi. Tôi e rằng rất khó cho Bộ GD-ĐT trong hoàn cảnh nước ta hiện nay nếu muốn vận dụng cách thức này để hy vọng khoản đóng góp tăng.

- Lòng tin (trust): khi người ta tin tưởng vào người khác và vào tổ chức đứng ra thực hiện quyên góp, khoản đóng góp sẽ cao hơn so với khi không có lòng tin hoặc rất ít lòng tin. Nói về chiến dịch quyên góp của Bộ, nếu Bộ muốn thu được nhiều tiền bằng phương thức đóng góp tự nguyện, Bộ cần cải thiện lòng tin của người đóng góp vào nhau và vào chính mình. Bất khả thi?

______________________________

Ghi chú: các kết quả của kinh tế học hành vi và thực nghiệm tôi tổng kết ở trên là dựa trên nghiên cứu với cá nhân. Đơn vị đóng góp trong chiến dịch quyên góp của Bộ lại là một tổ chức (trường học). Và có thể hành vi của tổ chức khác với hành vi của cá nhân. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu mới nhất cũng chỉ ra nhiều điểm tương đồng. Mời bạn vào đọc bài này của Bénabou and Tirole, mới được tác giả công bố ngày 04/04/2010.

7 tháng 4, 2010

Gabriel Marquez và Elinor Ostrom có gì chung?

Đọc tâm tình này về tác phẩm "Trăm năm cô đơn" của Marquez, chợt hỏi Gabriel Marquez Elinor Ostrom có gì chung? Một người đi về cùng cực của sự cô đơn, người kia tìm lời giải cho một giải pháp chung.

Nếu chỉ có 1 câu để nói về nguồn gốc của các vấn đề môi trường ngày hôm nay, câu đó sẽ là: con người không có khả năng hợp tác giải quyết các nguồn tài nguyên chung. Gốc rễ của vấn đề là ở chỗ hành động của con người được dẫn dắt bởi sự ích kỷ. Một khiếm khuyết tông tổ tự nhiên.

Solitude và self-interest!

Nếu các mối liên hệ ràng buộc con người với nhau tạo nên thành phần chính của hạnh phúc thì quả là con người quá bất hạnh với cái di sản tông tổ, là tính ích kỷ này và sự cô đơn này.

Marquez mô tả tuyệt vời về nó. Ostrom, như một hiệp sĩ thánh chiến, tìm cách dẫn dắt đoàn người vượt qua nó.

Nhưng, như Marquez đã cất lên tiếng than "trăm năm cô đơn", vạn kiếp cô đơn...

6 tháng 4, 2010

Đặt cọc 1000 USD

Tin trên VNN: "Những hiệu trưởng nói không với đặt cọc 1000 USD".

Tui cũng được hân hạnh đặt cọc 1000 USD. Một ngàn đô để ở nhà lỡ kẻ trộm nó cạy tủ lấy mất thì toi, gửi ngân hàng thời nay thì quá nguy hiểm, đến quốc gia còn vỡ nợ nữa là. Được trường đại học với bao nhiêu giáo sư và tiến sĩ giữ giùm không phải vừa an toàn vừa vinh hạnh à?

5 tháng 4, 2010

Kinh tế học và bóng đá

Journal of Economic Psychology số tháng 4/2010 vừa ra hẳn một số chuyên đề về kinh tế và tâm lý học trong bóng đá. Đúng là bọn tư bản đang giãy chết không còn quan tâm gì đến khủng hoảng tài chính, lạm phát, thất nghiệp mà chỉ nhăm nhăm vô ba chủ đề tiểu tư sản ăn chơi này không.

Giáo sư đại học lãnh lương bằng tiền thuế của dân, ngân sách nghiên cứu cũng từ tiền thuế của dân, vậy mà còn biện luận kiểu như vầy nữa chớ: việc đưa yếu tố tâm lý và hành vi vào các mô hình kinh tế làm cho các mô hình phức tạp hơn rất nhiều, do đó phải dùng số liệu rất nhiều và tự nhiên trong bóng đá để kiểm định các mô hình, lý thuyết phức tạp này. Rồi còn viện dẫn "bóng đá là cuộc đời" để từ đó nói rằng nghiên cứu hành vi trong bóng đá cho phép nghiên cứu hành vi ngoài đời thực như sự phân biệt đối xử, ra quyết định dưới áp lực xã hội, phối hợp nhóm v.v. Các vị này mà sang Việt Nam thì chỉ có mà viết thư tự sự nức lòng trên báo thôi. Các vị nhớ nhé, qua Việt Nam phải làm nghiên cứu mô hình dự báo khủng hoảng kinh tế, mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam hay những đề tài tầm cỡ như vậy nhé.

Một trong 2 vị giáo sư-lãnh-lương-bằng-tiền-thuế-của-dân, biên tập viên của loạt bài nghiên cứu này, lại là vị rất có tiếng trong giới kinh tế học hành vi, Matthias Sutter, có nhiều bài đăng trên American Economic Review, tờ tạp chí chuyên ngành kinh tế mà hễ có bài đăng trên đó thì cũng y như cầu thủ được chức vô địch World Cup vậy. Vậy mới thấy bọn giáo sư tư bản đang tự đào hố chôn mình thế nào. Sao không biên tập cho những sự kiện quan trọng như hội thảo này “Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Thực trạng và lựa chọn cho giai đoạn 2011-2020”?

Bây giờ xem bọn tư bản giãy chết nghiên cứu cái gì.

Một bài thì về chuyện tổ chức sự kiện thể thao như Olympic, World cup, hay Seagames có đem lại hạnh phúc cho nhân dân không. Về mặt tài chính thì thường chẳng có lợi lộc gì, nhưng nếu dân mình hạnh phúc thì cũng nên làm. Vậy mà nó nghiên cứu xong dám kết luận là nói chung dân chẳng hạnh phúc gì hơn. Kết luận như vậy là trái với định hướng đăng cai tổ chức các sự kiện thể thao hoa hậu lớn của đảng và nhà nước rồi nhé.

Một bài thì kỳ cạy nghiên cứu xem trọng tài bị áp lực xã hội cũng như chuyện quốc tịch ảnh hưởng thế nào khi ra quyết định thổi tuýt tuýt. Kết quả là khi đám đông trên khán đài tạo áp lực lớn, xác suất rút thẻ vàng thẻ đỏ sai tăng hẳn. Rồi còn quốc tịch trọng tài, quốc tịch đội bóng, thành tích đội bóng cũng ảnh hưởng đến quyết định của trọng tài. Trọng tài từ những nước có nền bóng đá nhỏ thường thiên vị đội bóng chủ nhà. Cũng vấn đề này, một nghiên cứu khác chỉ ra rằng trọng tài thì sợ nhất là áp lực của số đông khán giả, từ đó dễ dẫn đến bắt sai. Thế đấy, các giáo sư ăn lương mấy ngàn ơ rô một tháng mà chỉ nghiên cứu ra kết quả có vậy, chứ ở Việt Nam ai cũng biết, đám đông khán giả thì nhằm nhò gì, quyết định của trọng tài còn bị ảnh hưởng bởi yếu tố khác mạnh hơn ấy nữa chứ.

Người ta còn nghiên cứu xem khoảng cách di chuyển từ nhà đến sân khách ảnh hưởng ra sao đến kết quả thi đấu. Khoảng cách càng lớn thì kết quả có vẻ càng tệ đi. Tác giả cho rằng nguyên nhân có thể là do yếu tố tâm lý chứ không phải do đội bóng có kinh nghiệm đi xa hay không. Các ông bầu rõ chưa, đội bóng đi xa thì nhớ mang theo bác sĩ tâm lý xịn nhé, không cần mang theo các loại quan chức để động viên tinh thần.

Có giáo sư còn nghiên cứu xem đội bóng gồm những cầu thủ trình độ đồng đều so với đội bóng có 1 số tài năng thì đội nào năng suất hơn. Kết quả nghiên cứu thống kê 1836 trận ở giải Bundesliga cho thấy đội có trình độ đồng đều có xác suất thắng cao hơn các đội đầu tư vào 1 hay 2 tài năng. Rõ nhé các ông bầu, thay vì mua 1 anh Lee Nguyễn thì đầu tư vào 3 - 4 anh Đực Anh Đực Em sẽ hiệu quả hơn.

Bản thân 2 giáo sư biên tập chuyên đề này cũng có bài nghiên cứu về màu áo của đội bóng có ảnh hưởng đến kết quả thi đấu không. Kết quả là chẳng có ảnh hưởng gì ráo. Thế nhé, đội tuyển Việt Nam có mặc áo trắng thì cũng không nâng xác suất thắng lên được bao nhiêu đâu nhé. Bác Hỷ nhà mình thì lại không dám thay áo của chính bác ấy nữa chứ, bác ấy có cái áo vest cứ mặc là thắng thì phải? Nhà mình thì cứ thay ghế là thắng.

Chuyên đề "kinh tế học và tâm lý học bóng đá" này minh họa cho tinh thần nghiên cứu khoa học trong kinh tế học: nghiên cứu một cách khoa học từng cái nhỏ, từng bộ phận. Mỗi nghiên cứu là một viên gạch, làm nền móng, và làm nên thành ngôi đền khoa học, mà trên đó cái nóc chính sách được chắc chắn vững chãi.

_______________________

Bạn nào muốn biết các giáo sư "đã làm điều đó như thế nào", nếu không download được bài nghiên cứu thì đánh dây thép cho tôi nhé, tôi sẽ gửi bài cho.

1 tháng 4, 2010

Dùng kinh tế học hành vi để đoán hình


Tôi mời bạn tham gia 1 trò chơi. Bức hình ở trên chụp ảnh hiệu trưởng 1 trường đại học và các giáo viên. Bạn đoán thử xem ai là hiệu trưởng? và tại sao?

Phần dưới đây sẽ là cách các nhà kinh tế học hành vi dùng để trả lời câu hỏi trên của tôi.

Thomas Schelling, nhà kinh tế học được giải Nobel năm 2005, tường thuật lại 1 thí nghiệm: Schelling đề nghị người tham gia tưởng tượng ngày mai sẽ gặp một người khác ở thành phố New York. Tuy nhiên không có thông tin gì về địa điểm và thời gian gặp. Ông đề nghị người tham gia thí nghiệm chọn địa điểm và thời gian mà mình nghĩ người kia cũng sẽ chọn để gặp mặt. Và nhiều người đã chọn gặp dưới đồng hồ nhà ga trung tâm lúc 12 giờ trưa!

Nghĩa là không trao đổi với nhau nhưng họ vẫn thống nhất được địa điểm và thời gian, vẫn đạt được kết quả. Cái điểm dẫn mọi người đến với nhau và đạt được kết quả mà không cần trao đổi, chính là điểm hội tụ tự nhiên - focal point.

Kinh tế học chính thống nghiên cứu về hành vi của đối tượng kinh tế, trong trường hợp trên sẽ giả định mọi người chọn ngẫu nhiên nếu không có thông tin gì để đoán hành vi của người kia. Tuy nhiên, thực tế, người ta có căn cứ nào đó để đoán hành vi của người khác và từ đó thực hiện hành vi kinh tế của mình. Focal point có vai trò trong trường hợp này. Schelling cho rằng focal point hình thành từ những kinh nghiệm chung, từ các yếu tố tâm lý và văn hóa.

Ở Anh có luật cấm các cơ sở giáo dục trao đổi thông tin về chi phí, vì các trường có thể cấu kết để nâng học phí. Tuy nhiên các trường vẫn tăng được do phối hợp với nhau dựa trên focal points. Nghiên cứu khác trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp cho thấy, các báo cáo tài chính thường rất ít các khoảng lỗ nhỏ, chỉ toàn là lợi nhuận bằng 0 hoặc âm nhiều hoặc dương nhiều. Ở đây Wall Street có 1 niềm tin chung 1 cách tự nhiên là các khoản lỗ nhỏ của công ty thể hiện CEO của công ty thiếu kỹ năng điều hành. Do đó, các CEO tìm mọi cách tránh các khoản lỗ nhỏ!!!

Nghiên cứu về focal point có thể giúp giải thích hành vi trong thương lượng, trong các vấn đề về phối hợp và hợp tác để quản lý tài nguyên (biển, đảo???) và quản lý xã hội (chống tụ tập biểu tình???).

31 tháng 3, 2010

Chúng ta thiếu NCKH trong kinh tế học

Trang mạng Diễn Đàn có 1 bài tựa đề là "Một năm nhìn lại" có mục tiêu là "để hiểu rõ hơn diễn tiến và tác động của những biến động dẫn đến những rủi ro kinh tế vĩ mô hiện nay, thử lược điểm, phân tích và tổng hợp các dữ liệu và luận cứ của các nghiên cứu trong và ngoài nước."

Tui không bình loạn gì về nội dung bài viết, nhưng chú ý đến cái danh mục tài liệu tham khảo. Danh mục này nói lên 1 thực tế: Việt Nam đang thiếu trầm trọng các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế học.

Danh mục này có 16 nguồn trích dẫn, trong đó có 0 bài báo được đăng trên các tạp chí chuyên ngành có bình duyệt (nghĩa là nghiên cứu khoa học đó được quốc tế công nhận về mặt chất lượng tối thiểu), 5 bài là các báo cáo nghiên cứu "working paper" của các tổ chức như IMF, WB v.v. và 11 bài còn lại là các bài trên báo chí. Theo tui các "working paper" hay báo cáo dạng này của IMF, WB thường có tính chất tổng hợp các quan sát hơn là nghiên cứu hệ thống về một vấn đề. Còn bài đăng báo chí thì khỏi nói, đó là cái lẩu mà thành phần là tin tức và quan sát và nhận định chủ quan của người viết.

Tóm lại, cảm giác của tui về danh mục tham khảo này là thực ra có bấy nhiêu thông tin, bấy nhiêu quan sát đấy thôi, rồi thì mỗi bài nhào qua nhào lại rồi vừa ôm chân voi vừa đoán thôi.

Tui rất tôn trọng nỗ lực và công sức của tác giả bài viết này, tui chỉ muốn minh họa 1 thực tế thôi. Đó là chúng ta rất đang thiếu những công trình nghiên cứu khoa học thực chất trong lĩnh vực kinh tế học, những công trình có thể chỉ ra được 1 cách có bằng chứng khoa học nhất các mối quan hệ kinh tế, để có thể làm nền tảng cho những chính sách kinh tế hợp lý.


Danh mục đây:

- Consultative Group Meeting for Vietnam Shogo Ishii - IMF 4/12/2009.

- Vietnam's Devaluation Helps Dong, but Problems Linger Alex Frangos, Patrick Barta - The Wall Street Journal 2/12/2010.

- Internationalization and macroeconomic management in Vietnam: Some lessons from Swedish experiences Ari Kokko, Kerstin Mitlid, Arvid Wallgren - Sweden 6/2007.

- Cả tư duy và mô hình tăng trưởng đã không còn phù hợp Trần Xuân Giá, Lê Hường - VnEconomy 9/2/2010.

- Vietnam as Asia's first domino? Shawn W Crispin - Asia Times 10/2/2010.

- Kích cầu dưới góc nhìn Ngân hàng Thế giới NVP lược trích - WB 10/6/2010.

- Vietnam's Devaluation Helps Dong, but Problems Linger.

- The Tet effect - The Economists 4/3/2010.

- Vốn kích cầu đổ vào chứng khoán - Phương Anh - Người Lao Động 14/4/2009.

- 10 điểm đáng chú ý của xuất nhập khẩu 2009 Anh Quân, VnEconomy 31/12/2009

- Thâm hụt thương mại và cán cân thanh toán : Bài toán khó Phan Nam - Diễn Đàng Doanh Nghiệp 5/3/2010

- Vietnam's chronic currency weakness takes toll on firms John Ruwitch - Reuters 10/12/2009.

- Beyond The Financial Crisis: Vietnam Economic Prospects in 2010 - IMF 11/5/2009.

- Đi tìm nguyên nhân thực của căng thẳng tỷ giá Nguyễn Hoài - VnEconomy 11/2/1020.

- Thay đổi cơ cấu: giải pháp kích thích có hiệu lực duy nhất Harvard, Fulbright program 1/1/2009.

- Điều chưa nói trong báo cáo. Jonathan Pincus - Thời báo Kinh tế Sàigon 11/6/2009

Sinh viên ĐH Cần thơ hiểu về NCKH

Tui định bình loạn về cái tin "31,48% SV chưa nắm được thế nào là nghiên cứu khoa học" đăng trên Dân Trí thì biết đã có GS. Nguyễn Văn Tuấn viết rồi, đành thôi vậy. Góp thêm ví dụ:

- Không chỉ sinh viên, nhiều nhà nghiên cứu trong các trường đại học, viện nghiên cứu hiểu không đúng về NCKH. Dẫn chứng nhé: bạn vô trang web của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, chọn nút "Tài nguyên", chọn tiếp "Công trình nghiên cứu", chọn tiếp "Nghiên cứu của giảng viên", và bạn sẽ thấy đa số "công trình nghiên cứu của giảng viên" là các bài viết đăng trên các báo Vietnamnet, TBKTSG. Nếu các bài viết đăng báo này xuất phát từ 1 công trình nghiên cứu cụ thể nào đó thì không có vấn đề gì, nhưng hầu hết các bài này lại là "công trình" giảng viên ngồi đọc tin báo chí + đọc thêm tài liệu học thuật rồi nhào lại mà thành. Và đó được xem là "Nghiên cứu của giảng viên".

- Một lý giải thêm về tại sao không nên viết 31.48% mà nên viết 31% hoặc 32% hoặc 1/3: với kích thước mẫu 1000, thì có thể các con số 31%, 31.48%, 32%, 1/3 không khác nhau về mặt ý nghĩa thống kê. Mà đã không có gì khác nhau thì trình bày 31% hay 1/3 sẽ dễ nhớ hơn con số 31.48%.

30 tháng 3, 2010

không chịu dự báo...

Greg Mankiw, giáo sư kinh tế đại học Harvard, có kể 1 kinh nghiệm trong 1 bài viết trong blog của ổng:

"...tương đối ít nhà kinh tế học chịu bỏ thời gian làm công việc dự báo. Các nhà kinh tế học lên Tivi thường cố dự báo tương lai, nhưng đấy chẳng phải là những nhà kinh tế học hàng đầu đâu. Thú thực, lý do mà tôi không có hứng thú lên Tivi là vì nhà đài cứ hay hỏi mấy câu cứ như thể các tiến sĩ kinh tế học có thể thấy được tương lai hơn mấy người khác, trong khi các tiến sĩ kinh tế thực thụ biết rằng quá trình đào tạo kinh tế học đề cập rất ít đến dự báo".

Mà tụi Mỹ nó làm nghiên cứu ào ạt, hầu như lĩnh vực chuyên sâu nào cũng có nghiên cứu, nghĩa là nói ra là có bằng chứng khoa học hỗ trợ, vậy mà còn lười, nhát gan không zự béo đóng góp gì cho tổ quốc hết trơn...đúng là bọn tư bổn đến hồi giãy chết...


Nguyên văn:

"...relatively few academic economists devote their time to forecasting. The economists you see on TV are often trying to predict the future, but that is hardly a random sample of top economists. Indeed, one reason I am not fond of TV appearances is that TV hosts frequently ask questions that presume PhD economists can see into the future better than others, whereas actual PhD economists know that very little of our training has anything to do with forecasting."

29 tháng 3, 2010

Lý thuyết đàn hồi và khủng hoảng kinh tế

Bữa nay tui bạo gan nói về "khủng hoảng kinh tế". Số là the New York Times vừa có bài của Greg Mankiw về phải làm gì để chiến đấu với khủng hoảng kinh tế. Mankiw cho rằng thiệt là khó có thể dự báo khủng hoảng kinh tế (có lẽ vì các nhà kinh tế học đang khủng hoảng he...he...) và khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong tương lai. Cho nên tốt hơn hết là bà con nên phòng cơ tích trữ, mì tôm, mắm ruốc v.v. Có bồ nhí thì nhớ mua bảo hiểm cho nó.

Tui chợt nhớ về cái lý thuyết đàn hồi (Resilience theory) mà tui được khai lòng 2 năm trước. Cái lý thuyết này bắt nguồn từ lý thuyết hệ thống sinh thái. Hệ thống sinh thái nào, chẳng hạn rừng ngập mặn, có khả năng đàn hồi cao thì khả năng sống sót và phát triển qua cơn bĩ cực (ví dụ như bão tố, sâu bệnh) bấy nhiêu. Sau này lý thuyết mở rộng ra, đưa thêm khái niệm xã hội vô, thành ra tính đàn hồi của hệ thống sinh thái-xã hội trước biến cố rủi ro. (Xem thêm về lý thuyết này ở Stockholm Resilience Center mà tác giả Nobel kinh tế học năm nay Elinor Ostrom là một thành viên hội đồng. Nóng chưa?)

Giải thích tính đàn hồi bằng hình vẽ hen.





Cái hố tròn tròn trên hình bên trên là để nói khả năng đàn hồi lớn hay nhỏ. Hố càng rộng càng sâu thì khả năng đàn hồi càng lớn. Cái hình đồ thị bên dưới là để diễn tả hệ thống khi có khủng hoảng/sốc/rủi ro. Hình (a): hệ thống (là cái viên tròn tròn đó) đang ở trạng thái cân bằng ban đầu. Hình (b): vì lý do gì đó, khả năng đàn hồi bị giảm, cái hố giãn ra. Hình (c): khủng hoảng đến (là mũi tên đó) tác động vào hệ thống. Hình (d): do tính đàn hồi kém, khủng hoảng đẩy hệ thống rơi vào trạng thái cân bằng mới, thấp hơn trạng thái ban đầu.

Bây giờ tui mở rộng lý thuyết đàn hồi này cho toàn bộ nền kinh tế luôn (ghê hông? tui không biết đã có ai nói về chuyện này chưa). Mankiw cho rằng khủng hoảng kinh tế là khó có thể dự báo được. Qua rồi cái thời cứ ầm ầm tiến lên phía trước và tin rằng chúng ta có thể chiến thắng được tất cả. Cho nên cần phải tư duy lại cách thức tổ chức nền kinh tế. Theo tui cần tư duy theo kiểu lý thuyết đàn hồi, tức là cần chuẩn bị và xây dựng hệ thống kinh tế ở trong 1 cái khung có tính đàn hồi cao, để khủng hoảng có xảy ra thì cũng không đủ sức đẩy nó ra khỏi trạng thái cân bằng cao mà rơi xuống trạng thái cân bằng ở vực thẳm.

Nghĩa là phải làm thế nào để cái hố chứa nền kinh tế của chúng ta bây giờ vừa rộng, vừa sâu, vừa dốc. Bộ Chính trị ra nghị quyết như thế nhé. Các đồng chí bên dưới triển khai nghiên cứu tiếp "rộng, sâu, dốc" là cái gì nhé, và làm thế nào để hoàn thành nghị quyết nhé.

28 tháng 3, 2010

Cơ hội nào cho giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học?

Ấy là tui nhại lại tiêu đề của bài viết của tiến sĩ Đỗ Tiến Sỹ trên báo Giáo dục và Thời đại online. Nếu bạn thích văn phong thể loại nghị quyết thì nhấn vào đây, bạn thích cà rỡn thì đọc tiếp phần tui viết dưới đây.

Nhưng cũng phải tóm tắt bác hai tiến sĩ ấy viết gì. Bác ấy nêu 1 số "giải pháp" sau: (1) Tạo hành lang pháp lý phát triển GVT, phát huy năng lực NCKH, (2) Đổi mới công tác hướng dẫn, bồi dưỡng GVT, (3) Phát triển phong trào thi đua NCKH, (4) Cải thiện chế độ tiền lương ngạch giảng viên, chế độ khen thưởng, cơ chế phân bổ kinh phí hợp lý.

Còn tui thì chỉ nghĩ ra được 1 "giải pháp" duy nhất: muốn giảng viên trẻ nghiên cứu khoa học, thì đừng cho giảng viên già nghiên cứu khoa học nữa.

Ấy, câu trên tui nói zui, là tui dùng thủ pháp tạo điểm nhấn thôi. Nói zậy nhưng không phải zậy. Ý của tui là: cái cơ chế NCKH trong đại học từ trước tới giờ không tạo ra động lực (incentive) thúc đẩy giảng viên trẻ NCKH. Nếu thực sự muốn tạo cơ hội cho họ, hãy cho họ cái khung NCKH mới (trong khi vẫn có thể duy trì cái cũ cho người cũ).

Tui nghĩ như zầy nè:

Trường đại học nên chia ngân sách cho NCKH hàng năm thành 2 phần: phần 1 vẫn hoạt động như đang hoạt động, phần 2 dành cho NCKH hướng mới. Tạo ra một cơ chế hoạt động riêng cho ngân sách phần 2 này. Chẳng hạn giao cho một nhóm, để nhóm hoàn toàn tự quyết việc chi tiêu ngân sách nghiên cứu và đặt mục tiêu cho nhóm này, chẳng hạn sau 3 năm có 2 bài được đăng tạp chí chuyên ngành quốc tế mức trung bình.

Tui nêu lý do việc tách ra dưới đây.

Hầu hết các NCKH hiện tại đều không đạt chuẩn 1 nghiên cứu (research) theo tiêu chuẩn trung bình trên thế giới. Bạn đọc 1 bài báo cáo nghiên cứu đăng trên 1 tạp chí chuyên ngành mức trung bình của thế giới thử xem. Vấn đề giải quyết có thể không có gì mới, nhưng phương pháp giải quyết vấn đề đó sẽ đâu ra đó, tổng kết lý thuyết ra tổng kết lý thuyết, mô hình ra mô hình, phân tích kinh tế lượng ra phân tích kinh tế lượng.

(bạn có thể nói nhiều NCKH hiện giờ cũng có phân tích kinh tế lượng phức tạp chứ bộ, nhưng tui cho rằng phần lớn phần kinh tế lượng trong các nghiên cứu này mang tính trang trí trình diễn là chính, chứ không có ý nghĩa học thuật. Tui sẽ nói chuyện này sâu hơn trong 1 bài viết khác)

Cứ phải tham gia vào những NCKH không đạt tiêu chuẩn học thuật sẽ làm thui chột động lực tìm tòi sáng tạo bên trong của giảng viên trẻ. Tệ hơn nữa nếu giảng viên trẻ tham gia vào 1 nghiên cứu mà công việc chủ yếu là copy mỗi tài liệu 1 ít xào lại thành báo cáo nghiên cứu của mình. Nó làm cho giảng viên trẻ ngộ nhận rằng làm nghiên cứu chỉ có vậy, và để làm được như vậy thì không cần đầu tư công sức gì ghê gớm lắm.

Hướng NCKH mới này cũng bao gồm khả năng tạo ra động lực tài chính cho giảng viên trẻ. Chẳng hạn tại 1 trường đại học hàng đầu ở VN, 1 báo cáo nghiên cứu được đăng trên tạp chí quốc tế sẽ được thưởng 2 triệu đồng. Tui nghĩ lẩn thẩn tại sao không thưởng 60 triệu đồng. 60triệu là bằng số tiền đầu tư cho 3 nghiên cứu cấp trường. Tác động lan tỏa của 1 báo cáo được đăng trên tạp chí quốc tế chắc chắn sẽ lớn hơn của 3 bài báo cáo nghiên cứu cấp trường, tui nghĩ zậy.

(có trường ĐH ở châu Âu trả lương cho giảng viên dựa theo số bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành. Một bài đăng trên American Economic Review có trọng số bằng 25 bài trên tạp chí trung bình. Cứ nhìn vô CV là biết ai lương cao lương thấp rồi hen, khỏi cần biết người đó có được bình bầu là lao động tiên tiến không hen)

Túm lại, "giải pháp" của tui có 2 điểm: (1) tạo động lực học thuật bằng cách tách giảng viên trẻ ra khỏi hướng cũ, đưa họ vào 1 nhóm tự trị, (2) tạo động lực tài chính bằng cách cắt bớt nguồn tài chính hướng cũ, dồn vào hướng mới.
___________
Cập nhật: có bài này hơi liên quan trên VNN "Tự sự nhức lòng của tiến sĩ ngoại trở về đại học lớn"

27 tháng 3, 2010

Lịch sử quay trở lại

là tựa đề của bài viết khá thú vị trên the New York Times, "The return of history". Đại thể là tác giả cho rằng dòng đời kinh tế học có 5 hồi.

Hồi 1: thời kỳ kinh tế học là một khoa học, các nhà kinh tế đưa ra các giả thuyết và xây dựng các mô hình đẹp đẽ nhằm mô tả những gì diễn ra trong nền kinh tế và dự báo những gì sẽ xảy ra.

Hồi 2: các giả định chặt chẽ (nhưng phi thực tế) của các mô hình hồi 1 được nới lỏng bằng các nghiên cứu kinh tế học hành vi.

Hồi 3: đỉnh cao của các mô hình kinh tế học đến thời điểm khủng hoảng tài chính năm 2008-2009. Các mô hình kinh tế học tỏ ra bất lực khi cố gắng tiên đoán và giải thích khủng hoảng tài chính.

Hồi 4: hiện giờ nè, kinh tế học đang tìm kiếm linh hồn của chính mình. Ta là ai? Có vẻ như các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm đến cảm xúc, các ràng buộc xã hội, tình yêu v.v. Kinh tế học đang theo hướng trở nên gần gũi với xã hội học, tâm lý học hơn là giống các mô hình toán và vật lý học.

Hồi 5: hồi tương lai, tác giả dự đoán mấy cái mô hình toán kinh tế và kinh tế lượng xử lý số liệu sẽ bị diệt vong. Kinh tế học là một nghệ thuật, như văn học vậy, chứ không còn là một ngành khoa học.

Tui nghĩ, nếu tác giả muốn nói lịch sử kinh tế học quay trở lại, giống như ngành thời trang với chiếc quần khi ống hẹp khi ống loe, thì ổng phải để hồi 1 là hồi của Adam Smith, khi chưa có mô hình toán gì ráo. Hồi 5 sẽ quay trở lại hồi 1. Lịch sử quay trở lại.

Tui nghĩ, tác giả nói hiện giờ là hồi 4, các nhà kinh tế học quan tâm, nhưng ở mức độ nhỏ bé, đến các yếu tố như tinh thần, tâm hồn, quan hệ xã hội v.v. sau thất bại thấy rõ của các mô hình kinh tế tân cổ điển trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, là không chính xác lắm. Thực ra nhất nhiều nhà kinh tế học đã nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội, về yếu tố tâm lý học, cảm xúc v.v. từ những năm 1980 (kinh tế học thể chế). Giải Nobel kinh tế học năm nay được trao cho Elinor Ostrom, một nhà khoa học chính trị, chuyên nghiên cứu về các mối quan hệ xã hội và việc quản lý tài nguyên chung, cho những công trình nghiên cứu của bà từ những năm 1990. Thực ra kinh tế học hành vi của hồi 2 và kinh tế học thể chế đã bước vào nhau rất nhiều từ lâu rồi, và đang trộn lẫn để cho ra cái kinh tế học mà tác giả mô tả trong hồi 4.

Tác giả cho rằng kinh tế học sẽ theo kiểu "case study", rút kinh nghiệm và dự báo từng trường hợp theo kiểu xã hội học hay văn học. Tui nghĩ rằng hành vi và các mối quan hệ tương tác của con người có đặc tính phổ quát. Nghĩa là kinh tế học vẫn có thể mô hình hóa nó, cung cấp cho chúng ta tấm bản đồ, để giảm thiểu khả năng bị lạc đường của chúng ta.
______________________________________

Bổ sung: và xem Greg Mankiw bình luận bài viết này trên blog của ổng nè.

26 tháng 3, 2010

Thư ngỏ gửi thầy trưởng khoa (nhờ đăng)

Một bạn đọc gửi cho tôi email, viết rằng do không có blog riêng, vả lại cũng không dám đường đột gửi trực tiếp cho thầy trưởng khoa, nên cậy đăng lá thư của bạn ấy lên đây.
______________________________________________________________________

Kính gửi thầy trưởng Khoa Kinh tế,

Thưa thầy, em mới được thông tin khoa Tài chính Doanh nghiệp vừa tổ chức 1 "hội thảo khoa học" có tên là "Những trường phái và góc nhìn khác nhau về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam". Nhìn những tấm hình diễn giả đứng trên sân khấu hoành tráng như sân khấu đêm trao giải Oscar, đọc những cái tên hùng vĩ của những bài báo cáo như "khủng hoảng kinh tế học hàn lâm" "thiết lập hệ thống cảnh báo" "thuyết bất ổn tài chính" v.v. em không thể ngừng không bày tỏ lòng kính trọng với các thầy cô giáo khoa TCDN. Các thầy cô bận rộn trăm ngàn công việc giảng dạy Tài chính doanh nghiệp và Kinh doanh bảo hiểm, thế mà còn dành được thời gian nghiên cứu rộng và sâu các vấn đề kinh tế vĩ mô và kinh tế tài chính quốc tế như thế.

Tuy nhiên em hoàn toàn không có ý gì về khoa mình ạ, mặc dù biết rằng khoa mình có các bộ môn Kinh tế học, Kinh tế quốc tế, và lại còn bộ môn Kế hoạch và đầu tư nữa, là những đơn vị học thuật rất thích hợp với chủ đề hội thảo trên. Em chỉ mong ước thầy với tư cách là lãnh đạo khoa, thiết lập mối giao lưu thân thiết với khoa TCDN, để chúng em có cơ hội giao lưu học hỏi, để có thể làm được một góc đề tài của 1 trong các đề tài trên là chúng em thỏa lòng mong ước lắm rồi ạ.

Em xin nguyện sẽ cố gắng trau dồi phẩm chất đạo đức tác phong để một ngày nào đó được đứng trên sân khấu kia, được đóng góp 1 phần nhỏ đưa khoa mình sánh vai cùng các khoa khác ạ.

Kính chúc thầy sức khỏe,
(đã ký)
Một giáo viên của khoa.

24 tháng 3, 2010

Lý thuyết thiên lệch về nhận thức

Khi Lê Công Định bị bắt, Trịnh Hội đã có 1 bài viết chia sẻ, và có 1 ý thế này "Tưởng là ở Việt Nam có tiền là sẽ có tất cả...Nhưng có một thứ không có gì sánh bằng...Đó là sự tự do và lòng tự trọng biết phải làm gì để không hổ thẹn với núi sông". Nếu nhận định này là đúng, câu hỏi đặt ra là người Việt Nam có cảm nhận mình thiếu tự do (và lòng tự trọng) lắm không?

Nếu câu trả lời là "có, người Việt Nam thấy mình thiếu tự do và thiếu tự trọng" thì chúng ta đã thấy được nhiều bão tố lắm rồi. Mà nay chỉ là những con gió thoảng. Giải thích hiện tượng này như thế nào?

Akerlof và Dickens trên một bài viết có tựa là "the economic consequences of cognitive dissonance" đăng trên American Economic Review số 72 năm 1982 có dẫn nhiều quan sát về hiện tượng thiên lệch nhận thức. Nhân viên làm việc ở các nhà máy điện hạt nhân (bao gồm các tiến sĩ) thường không đeo dụng cụ an toàn phóng xạ, mặc dù họ biết môi trường làm việc nguy hiểm. Dân ở vùng có rủi ro động đất hay lũ lụt cao lại không mua bảo hiểm thiên tai.

Lý thuyết thiên lệch nhận thức (theory of cognitive dissonance) cho rằng con người không những đạt được sự hữu dụng (utility) từ các hoạt động tiêu thụ vật chất mà còn hạnh phúc với chính niềm tin của mình. Khi mình tin vào điều gì đó, niềm tin này cũng đem lại lợi ích như khi mình ăn cái gì đó. Con người có thể chọn tin hay không tin vào một điều gì đó.

Nhân viên nhà máy điện hạt nhân đã quyết định tin rằng mình đang làm việc ở một nơi an toàn. Và niềm tin này đem lại cho họ sự sảng khoái, không còn sự khó chịu lo âu. Một khi họ quyết định như vậy, rõ ràng lợi ích lòng tin đem lại lớn hơn chi phí có thể có nếu rủi ro xảy ra.

Tâm lý học giải thích hiện tượng này như sau. Con người cảm thấy không ổn khi có 2 nhận thức trái ngược nhau. Và con người có thiên hướng xem họ là thông minh dễ thương. Cho nên bất cứ nhận thức nào xung đột với hình ảnh của mình thì con người dễ lãng quên hoặc chối bỏ.

Nhân viên nhà máy điện hạt nhân đã phải quyết định giữa 2 nhận thức, mà 2 nhận thức này xung đột với nhau. Một bên là nhận thức cho rằng mình là người thông minh không thể chọn một chỗ làm nguy hiểm rủi ro được. Nhận thức kia là biết rằng công việc thực sự là nguy hiểm. Nếu người nhân viên tiếp tục làm việc trong môi trường nguy hiểm, tức là họ đã chối bỏ nhận thức mình đang làm việc trong môi trường nguy hiểm, và họ đang hài lòng với nhận thức mình cũng không đến nỗi tồi, cũng biết chọn chỗ an toàn mà làm.

Nếu người Việt Nam nghĩ mình đang sống trong xã hội tự do và mình cũng có lòng tự trọng thì cũng tự nhiên thôi. Một phần bản chất con người. Các bác Vịt kiều yêu nước chớ có nhìn họ với ánh mắt có câu hỏi tại sao nhé.

Đoàn mà cũng khá



Thích câu khẩu hiệu Đoàn trường ĐHKT TP. HCM đặt trên sân khấu đêm hội "Sức trẻ Kinh tế 2010". Không câu nào khác mà chính là câu này. Ở dưới là "sức trẻ", ở trên là "giữ lấy nước".

23 tháng 3, 2010

Sợi xích

Em Lê Kiều Như viết sách Sợi xích, mới rình rang lễ ra mắt hôm trước, hôm sau đã bị các báo đánh đập chửi rủa tơi bời, rồi nhà xuất bản Hội nhà văn đề nghị ngưng phát hành. Lý do chính thức thì là "vi phạm quy trình xuất bản", nhưng thực ra NXB không chịu nổi áp lực của dư luận.

Một số người cho rằng cần cấm xuất bản vì sách dung tục và "cảm thấy hơn cả sự sỉ nhục", rồi còn dẫn thơ Nguyễn Bính ra ám chỉ tác giả "đĩ già tập tễnh nói văn chương...".

Tôi không được đọc hết cuốn truyện này, chỉ dòm qua 1 chương trên blog cogaidolong, chắc là chương nóng nhất. Blog Nguyễn Trọng Tạo cũng cho biết truyện "chỉ có mấy đoạn tả chuyện phòng the". Nếu đúng chất là như vậy và lượng là như vậy thì có nên cấm xuất bản truyện này vì lý do mấy cảnh sex của nó?

Các vị phản đối không biết đã đọc "Hạt cơ bản" của Michel Houellebecq do NXB Đà Nẵng phát hành chưa? Tiểu thuyết này "đã được dịch ra 30 thứ tiếng và phổ biến hầu như toàn cầu". Quý vị sẽ thấy rất nhiều đoạn mô tả sex các kiểu, từ 1 mình đến 2 mình đến tập thể; từ trên bãi biển đến dưới hồ bơi đến trong hộp đêm và trên tàu lửa. Mà ngôn từ mô tả đâu phải kiểu bồng bềnh bay bổng qua những đám mây hồng đâu, mà là kiểu thọc tay bẻ củ khoai lang cho vào mồm cắn rốp rốp.

Nếu mà lấy tiêu chuẩn mô tả chuyện phòng the ra mà cấm xuất bản "Sợi Xích" thì cũng nên cấm cả "Hạt Cơ Bản".

Và không thể cấm xuất bản 1 cuốn sách chỉ vì nó dở. Người ta phải có quyền viết sách dở chớ bộ. Một thị trường sách đa dạng vẫn hơn chứ. Mỗi người đều có vai trò nào đó trong cuộc sống, sao lại trói người ta lại? Cứ tưởng tượng các nhà sinh học mới tìm ra một loài dê núi ở Việt Nam. Loài dê này xấu xí, thịt dai, theo tiêu chuẩn thị trường thì chả có ích gì. Báo chí lại chả ào vào đưa tin nóng sốt à. Loài dê dại này đang đóng góp vào sự "đa dạng sinh học", và sau này mới có dê nhà thuần dưỡng để các bác có món lẩu dê ngon lành mà thưởng thức chứ.

Em Lê Kiều Như ơi, có vẻ em đang bị sợi xích khác trói rồi.

___________________________________

Cập nhật: mới phát hiện Lý Đợi có 1 bài trên BBC cũng về chuyện này.

22 tháng 3, 2010

Hợp tác hay là...?

Mỗi khi 2 đứa con tôi bắt đầu giành đồ chơi chung thì chiến lược phân xử của tôi là: tịch thu đồ chơi đó và nói với 2 đứa rằng nếu tụi con cùng chơi chung thì sẽ được chơi tiếp, còn nếu ai đòi chơi riêng và gây lộn thì sẽ chẳng ai có đồ chơi.

Tôi hy vọng chiến lược này có hiệu quả và rèn được cho tụi nhỏ biết cách hợp tác, đặng lớn lên mà sống với đời. Ấy là vì tôi nghĩ đến bài toán "tình thế tiến thoái lưỡng nan của người tù" (Prisoners'dilemma). Tóm tắt bài toán là như thế này, đọc kỹ hơn ở đây :

Hai kẻ bị tình nghi là tội phạm bị cảnh sát bắt. Cảnh sát không có đủ chứng cớ để kết án họ, và đã cách ly họ. Cảnh sát gặp từng người một và làm cùng thoả thuận: nếu một người thú tội mà người kia im lặng, người im lặng sẽ bị phạt 10 năm tù và người thú tội sẽ được thả tự do. Nếu cả hai đều im lặng, cảnh sát chỉ phạt được mỗi tù nhân 6 tháng tù vì một tội nhỏ khác. Nếu cả hai đều thú tội, mỗi người sẽ bị phạt 2 năm.

Với 2 người này, cách tốt nhất là hợp tác với nhau, cùng im lặng không khai, mỗi người sẽ chỉ bị 6 tháng tù.

Tương tự, nếu xóm nhà lá chúng ta lập 1 thư viện, rồi huy động mọi người trong xóm tự nguyện đóng góp truyện sách. Nếu mọi người đều đóng góp, xóm nhà lá sẽ có 1 thư viện nhiều sách cho con nít tụi nó đọc, vừa bổ não tụi nó vừa giảm tổn thọ cho cha mẹ.

Tuy nhiên, tôi lại hoang mang. Kết quả thực nghiệm kinh tế học với trò chơi hàng hóa công (public good game), là một dạng của bài toán tình thế tiến thoái lưỡng nan của người tù ở trên, cho thấy: những người hợp tác trong trò chơi sẽ có thu nhập thấp, những người không hợp tác (free riders) sẽ có thu nhập cao nhất. Cũng giống như làm bài tập nhóm. Sẽ có 1, 2 người cày cuốc vất vả làm bài tập, còn 2, 3 người khác la cà uống nước mía ăn gỏi cuốn. Điểm bài tập nhóm sau đó là bằng nhau với mọi người.

Con mình mà hợp tác, nó sẽ bị thiệt thòi với đời. Còn những người ăn mảnh, mới là gương điển hình thành công. Không phải vậy sao?

19 tháng 3, 2010

Nhà báo có nên đi ăn trưa một mình?

Tui nhớ mang máng đâu đó có người nói đại ý: nhà báo giỏi là nhà báo biết mời ăn trưa đúng nhà chuyên môn, để đến khi có "sự kiện" thì có ngay ý kiến của nhà chuyên môn đó. Chẳng hạn biết trong đại học Kinh tế có ông nào chuyên nghiên cứu về tê giác thì mời ổng đi ăn trưa, đặng một ngày nào đó mấy con tê giác rừng Cát tiên có lăn quay ra thì có ngay ông đó để phỏng vấn nguyên nhân, cách thức quản lý tài nguyên thế nào mà dẫn đến hậu quả như vậy và bài học cho việc quản lý các con khác.

Cho nên tui hiểu nghề làm báo là nghề chuyên đưa tin tức sao cho nhanh, đúng. Phần bình luận đánh giá nội dung tin thì thuộc về các nhà chuyên môn và sau đó là công chúng.

Thành ra tui cũng khá hoang mang khi thấy trên báo mình, nhà báo thay vì mời chuyên gia đi ăn trưa, nay tự ăn một mình rồi viết bài bình luận luôn. Bạn biết tui sắp nói gì rồi: bài viết-ăn-trưa-một-mình đó không đủ hàm lượng chuyên môn. Khổ nỗi dân ta lại có thói quen tin báo chí lắm, muốn dẫn chứng gì thì hay nói đại loại như "báo như vậy đó đó, cấm có sai nhé".

Mà không phải chỉ có dân thường tin báo chí đâu nhé, có nhiều giáo sư đại học hay nói năm ngoái tui viết được 50 bài báo, trong khi tụi giáo sư nước ngoài thường viết được khoảng 5 - 7 bài/năm là cùng. Giáo sư nhà mình cho rằng bài báo trên báo vnexpress (đăng bên cạnh tin uống thuốc lắc chồng đòi 20 lần một ngày) cũng là bài báo khoa học. Dẫn chứng thêm nè: vô trang quép chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam thử xem. Mục nghiên cứu của giảng viên đó. Mấy bài viết đăng báo SGTT, TBKTSG, VNN cũng là công trình nghiên cứu đó nghen. Rồi lật tiếp mấy cuốn luận văn từ bậc đại học đến bậc tiến sĩ mà xem, toàn trích dẫn từ báo chí. Tui chắc sắp tới cũng sẽ có nhiều luận văn, công trình nghiên cứu khoa học các cấp trích dẫn cái bài "vốn xã hội" mà tui bình loạn dưới đây cho mà xem.


Bài này trên VNN do nhà báo vừa ăn trưa một mình vừa viết.

1. Tiêu đề của bài báo là "vốn xã hội của chúng ta còn thấp".

Sự thực thì chưa có bằng chứng học thuật nào đề biết vốn xã hội của Việt Nam cao hay thấp. Có một số nhà nghiên cứu tiến hành thực nghiệm kinh tế học ở VN, kết quả là khả năng hợp tác hay sự quan tâm xã hội (social preferences) (là các yếu tố cấu thành nên vốn xã hội) của người Việt cao hơn mức trung bình của thế giới nhiều. Quan sát cho thấy, sự gắn kết cộng đồng, họ hàng làng xã (là yếu tố cấu thành vốn xã hội) của người Việt cũng khá lớn. Thế thì vốn xã hội của ta thấp nà thấp ở chỗ lào?

2. Tác giả viết "vốn xã hội thấp thể hiện sự khủng hoảng về lòng tin của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày".

Cảm nhận thì có thể nói lòng tin đang bị khủng hoảng thật. Nhưng bằng chứng từ World Value Survey cho thấy lòng tin (nói chung, với người lạ, với chính phủ) không thấp hơn mức trung bình của thế giới chút nào. Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh trong một nghiên cứu cho UNDP chỉ ra lòng tin của bà con ta ở ĐBSCL thật tuyệt vời.

3. Tác giả nhận định hỗn loạn trong giao thông là biểu hiện của vốn xã hội thấp.

Các yếu tố cấu thành vốn xã hội: mạng lưới xã hội (bạn bè, họ hàng), lòng tin, sự hợp tác. Yếu tố nào gây ra tình trạng hỗn loạn trong giao thông? Sự hợp tác? Elinor Ostrom chuyên nghiên cứu về vấn đề này, chỉ ra rằng muốn có hợp tác thành công, vai trò của thể chế (institution) là vô cùng quan trọng. Nếu muốn nói hỗn loạn giao thông là do thiếu hợp tác, thì không có nghĩa là do vốn xã hội thấp, mà do thể chế yếu.

4. Tác giả viết "Vốn xã hội được xem là phẩm chất của người dân"

Chỉ một dòng nhỏ các nhà nghiên cứu xem vốn xã hội là phẩm chất của cá nhân người dân. Dòng chủ đạo xem vốn xã hội là đặc tính của một cộng đồng.

Khỉ thật, câu sau tác giả lại viết "Khác với các loại vốn hữu hình như tài nguyên, lao động, tiền bạc, đây là loại vốn vô hình của một cộng đồng chứ không phải của một cá nhân".

5. Tác giả viết "vốn xã hội là một loại nội công, phải luyện tập lâu ngày mới có mà lại rất dễ tiêu hao".

Thực nghiệm kinh tế học chỉ ra rằng, khi có sự xuất hiện của những người xài chùa (free-rider), sự hợp tác giảm dần, nhưng mà không phải theo kiểu dễ tiêu hao nội công.

6. Tác giả nhận định vốn xã hội thấp là "mối bận tâm của không ít nhà đầu tư nước ngoài khi phải giải quyết các tranh chấp với người lao động trong các vụ đình công".

Càng phân tán càng dễ xử lý. Người lao động mà gắn bó chặt chẽ với nhau, tin nhau, hợp tác với nhau tốt thì mấy thằng tư bản phải lo mà tăng lương cải thiện điều kiện lao động đấy nhé.

7. Tác giả viết "Tôn giáo cũng góp phần đáng kể trong việc hình thành vốn xã hội".

Robert Putnam chỉ ra rằng đạo Tin Lành ở Ý là trở ngại cho việc hình thành vốn xã hội. Các nhà nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng xung đột giữa các tôn giáo thường phá hỏng vốn xã hội. Một nghiên cứu mới đây trên American Economic Review cho thấy sự hợp tác (tức vốn xã hội) ở những xã hội mẫu hệ là rất cao, trong khi ở nhóm Hồi giáo là thấp.

8. Tác giả viết "không ít người cho rằng kẻ thù lớn nhất của quá trình tích lũy và phát triển nguồn vốn xã hội chính là tham nhũng"

Có nghiên cứu chỉ ra rằng tham nhũng làm giảm vốn xã hội. Nhưng chưa thấy nghiên cứu nào nói tham nhũng là cản trở lớn nhất của việc phát triển vốn xã hội.

9. Tác giả viết "Đất nước ta với bề dày lịch sử và nhân văn lâu đời đã có nhiều giai đoạn nguồn vốn này phát triển rất mạnh. Đáng tiếc là trải qua nhiều biến động nay nguồn ấy đã suy kém dần."

Có 2 trường phái chính trong việc đánh giá tính ổn định của vốn xã hội: trường phái văn hóa và trường phái thể chế. Trường phái văn hóa thì cho rằng vốn xã hội khá bền vững, ít biến đổi theo thời gian, do được hình thành từ các yếu tố văn hóa lịch sử. Trường phái thể chế thì cho rằng vốn xã hội bị quy định bởi thể chế, cho nên có thể dễ thay đổi hơn. Bằng chứng số liệu của World Value Survey từ 1980 đến nay trên toàn thế giới cho thấy vốn xã hội (dùng chỉ số lòng tin làm đại diện) khá ổn định.

Truy ngược lại lượng hóa vốn xã hội trong lịch sử dường như là nhiệm vụ bất khả. Dù bạn có thành lập được nhóm nghiên cứu có bạn, Fukuyama, Putnam, Glaeser và Jared Diamond bạn cũng sẽ chào thua không chứng minh được nhận định này.

10. Tác giả viết "Vốn xã hội ở mức thấp thì dù có thu hút nhiều loại vốn vật chất khác nhiều đến đâu cũng khó đạt được một mức phát triển kinh tế cao và bền vững như mong muốn".

Có 2 trường phái mô hình hóa vốn xã hội: xem vốn xã hội là một production factor và xem vốn xã hội là factor productivity. Cả 2 trường phái đều chưa đưa ra bằng chứng rõ ràng vốn xã hội ảnh hưởng tác các loại input khác như thế nào. Tác giả đã khẳng định 1 câu đanh thép thế, các nhà nghiên cứu ở nhà bế con cho rồi, nghiên cứu làm chi nữa cho nhọc.

Tui không biết tác giả bài báo là ai, không có ý định chỉ trích cá nhân tác giả, chỉ mượn bài báo để nhắc các nhà báo đi ăn trưa nhớ mời chuyên gia nhé.

Quên, thêm chút nữa: nhớ mời đúng chuyên gia nhé, chứ không uổng tiền cơm.

17 tháng 3, 2010

Việt Nam mình nà nhất...

1. Một người bạn Thụy Điển vừa kể là cách đây mấy tuần, lòng bàn tay của bà xuất hiện mấy vết nám. Bà rất lo lắng và quyết định đi khám. Bà đến 4 bác sĩ. Cả 4 bác sĩ đều nói "không", không biết đây là bệnh gì, và không cho thuốc. Bà về nhà tức tối lắm, nhưng không biết làm sao, đành lo lắng và chờ mấy vết thâm này biến mất dần vậy.

Giá mà bà ở Việt Nam nhỉ, đảm bảo bà sẽ không phải lo lắng như vậy. Bà mà đến khám với bất kỳ bác sĩ nào, kể cả bác sĩ nha khoa, các bác sĩ đều định được bệnh ngay và cho thuốc về sung sướng mà uống nhé.

2. Đến thăm trường Kinh tế Luân Đôn (London School of Economics), nữ hoàng Anh hỏi:“Tại sao không ai tiên đoán được cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?”

Giá mà bà ở Việt Nam nhỉ, đảm bảo bà sẽ không hỏi như vậy. Đây nè, các vị bên Anh xem đây: "Xây dựng mô hình cảnh báo khủng hoảng tài chính và những khuyến nghị cho Việt Nam" là đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên làm đấy nhé. Được ban giám khảo chấm giải nhất cấp Bộ đấy.

Việt Nam mình nà nhất...

16 tháng 3, 2010

Lý thuyết tác động tràn (crowding theory)

Sự kiện tướng Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh chọn boxitvn làm nơi đầu tiên đưa ra công luận vụ cho nước lạ thuê rừng đầu nguồn và phát biểu của cô Lê Thị Công Nhân sau khi ra tù có 1 điểm chung: sự trừng phạt làm đối tượng lớn mạnh hơn.

Boxitvn một thời gian dài bị tin tặc tấn công. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và nhà giáo Phạm Toàn, 2 người chủ trì trang web, được an ninh mời làm việc trong nhiều ngày. Sóng gió nay đã tạm lắng. Những người chủ trì quyết tâm hơn. Nhiều nhân vật có uy tín chọn boxitvn là nơi gửi gắm ý kiến ra công luận. Anh Ba Sàm nhận định boxitvn đang thành sân chơi cho các tướng lĩnh về hưu.

Cô Lê Thị Công Nhân, sau khi ra tù, đã trả lời phỏng vấn VOA: “Chính nhờ việc ở tù đấy đã củng cố hơn niềm tin của tôi vào sự đúng đắn của con đường mà tôi đã lựa chọn. Trước đây nó là một mũi tên, và bây giờ nó là một thành trì”.

Các nhà kinh tế học* gần đây cho rằng hành vi của con người được điều khiển bởi 3 động cơ: động cơ vật chất (extrinsic motivation), động cơ nội tại mang tính xã hội (intrinsic motivation) và động cơ xây dựng hình ảnh cho bản thân (image concern). Quy luật căn bản của kinh tế học chính thống cho rằng tăng hay giảm động cơ vật chất sẽ điều khiển được hành vi của con người. Muốn người ta tăng cường làm cái gì đó, hãy tăng phần thưởng vật chất. Muốn người ta giảm làm cái gì đó, hãy làm chi phí thực hiện việc đó tăng, bằng quy định hay hình phạt chẳng hạn.

Muốn người ta ngừng làm trang web, hãy làm sao cho người ta trả giá đắt khi vẫn cố làm điều đó. Muốn người ta ngừng đấu tranh dân chủ, hãy làm sao cho người ta trả giá đắt khi vẫn cố làm điều đó.

Tuy nhiên lý thuyết tác động tràn lại có thể chỉ ra kết quả khác. Việc tăng động cơ vật chất (bằng phần thưởng chẳng hạn) có thể có ”tác động tràn” không mong muốn làm giảm động cơ xã hội, dẫn đến thay đổi hành vi theo hướng ngược lại. Bằng chứng từ số liệu thực tế và các thực nghiệm kinh tế cho thấy trao phần thưởng cho các tình nguyện viên làm giảm sự đóng góp của họ. Ở đây động cơ vật chất (phần thưởng) không có tác dụng khuyến khích tăng chất lượng công việc, ngược lại nó làm giảm động cơ muốn phục vụ xã hội của các tình nguyện viên. Tương tự, khi một số nhà trẻ áp dụng tiền phạt cho những phụ huynh đến đón con trễ, họ nhận ra rằng tình hình đón con trễ càng tồi tệ hơn. Nếu không có tiền phạt, động cơ xã hội của phụ huynh bảo họ rằng đến đón con trễ là làm phiền cô giáo, là không tử tế. Ở đây, tiền phạt (động cơ vật chất) đã làm xói mòn động cơ xã hội.

Sẽ không ngạc nhiên nếu sự đàn áp có thể biến một mũi tên thành một thành trì.


* chẳng hạn Bénabou and Tirole (2006) ”Incentives and Prosocial Behavior”, American Economic Review, 95 (5): 1652 – 1678.

12 tháng 3, 2010

Đạo sách

Mấy hôm nay báo chí có bài về nghi án đạo sách trong khối kinh tế. Một số tác giả của sách C bị các tác giả của sách B tố là đạo sách của mình.

Sách C là đạo từ sách B.

Thiên hạ lại râm ran chuyện này nữa: không chừng sách B đó lại đạo từ sách A nào đấy thì sao. Mà nếu tác giả sách A là người nước ngoài thì sao mà biết sách B tiếng Việt đạo từ sách A tiếng Anh mà kiện?

Tui cực lực phản đối các thế lực thù địch thực hiện những âm mưu diễn biến hòa bình gây tin đồn nhảm như thế này nhằm làm giảm giá trị nền giáo dục và đào tạo mà thầy Nhân đang ngày đêm ngày đêm chăm sóc. Không lẽ các thầy Việt Nam không đủ sức viết giáo trình mà phải đạo sách từ bọn tư bản?

Nhằm dập tắt ngay những âm mưu này, đề nghị các thầy sách B minh định ngay cho ạ.

11 tháng 3, 2010

Điểm tin 11/03/2010

- Bạn nào có xe Toyota: hãy yên tâm. Trên The New York Times, bác gs tâm lý học này cho rằng phần lớn các tai nạn do tăng tốc đột ngột đều là do người lái. Bộ não ra lệnh đạp thắng, nhưng chân thì đạp ga...rồi sau đó tường trình lại với cảnh sát là tao đạp thắng hoài mà nó không ăn, xe cứ vọt lên hoài...


Còn bác này thì tỉ mẩn tính ra rằng nếu bạn không thèm thay chân ga của con Toyota của bạn, xác suất chết của bạn là 2.8/1000000 trong vòng 2 năm nữa nếu bạn đang sống ở Hoa Kỳ. Còn xác suất chết của bạn vì tai nạn xe cộ, bất kể bạn lái xe gì, ở Hoa Kỳ trong 2 năm nữa là 1/5244 (sao dễ chết vậy trời, không biết có lộn không).

Nếu bạn ở Việt Nam: xác suất với Toyota chắc cũng như ở Hoa kỳ, trong khi xác suất bị tai nạn giao thông chắc chắn cao hơn Hoa kỳ. Yên tâm với Toyota nhé.

- Bạn nữ nào đang muốn giữ eo, không phát tướng: hãy uống 1 - 2 chai bia mỗi ngày. Theo the New York Times, nghiên cứu mới nhất cho thấy phụ nữ không uống rượu bia sẽ tăng cân nhanh hơn những người có uống. Kết quả này không áp dụng cho đàn ông.

Xem chi tiết ở đây.