19 tháng 3, 2010

Nhà báo có nên đi ăn trưa một mình?

Tui nhớ mang máng đâu đó có người nói đại ý: nhà báo giỏi là nhà báo biết mời ăn trưa đúng nhà chuyên môn, để đến khi có "sự kiện" thì có ngay ý kiến của nhà chuyên môn đó. Chẳng hạn biết trong đại học Kinh tế có ông nào chuyên nghiên cứu về tê giác thì mời ổng đi ăn trưa, đặng một ngày nào đó mấy con tê giác rừng Cát tiên có lăn quay ra thì có ngay ông đó để phỏng vấn nguyên nhân, cách thức quản lý tài nguyên thế nào mà dẫn đến hậu quả như vậy và bài học cho việc quản lý các con khác.

Cho nên tui hiểu nghề làm báo là nghề chuyên đưa tin tức sao cho nhanh, đúng. Phần bình luận đánh giá nội dung tin thì thuộc về các nhà chuyên môn và sau đó là công chúng.

Thành ra tui cũng khá hoang mang khi thấy trên báo mình, nhà báo thay vì mời chuyên gia đi ăn trưa, nay tự ăn một mình rồi viết bài bình luận luôn. Bạn biết tui sắp nói gì rồi: bài viết-ăn-trưa-một-mình đó không đủ hàm lượng chuyên môn. Khổ nỗi dân ta lại có thói quen tin báo chí lắm, muốn dẫn chứng gì thì hay nói đại loại như "báo như vậy đó đó, cấm có sai nhé".

Mà không phải chỉ có dân thường tin báo chí đâu nhé, có nhiều giáo sư đại học hay nói năm ngoái tui viết được 50 bài báo, trong khi tụi giáo sư nước ngoài thường viết được khoảng 5 - 7 bài/năm là cùng. Giáo sư nhà mình cho rằng bài báo trên báo vnexpress (đăng bên cạnh tin uống thuốc lắc chồng đòi 20 lần một ngày) cũng là bài báo khoa học. Dẫn chứng thêm nè: vô trang quép chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam thử xem. Mục nghiên cứu của giảng viên đó. Mấy bài viết đăng báo SGTT, TBKTSG, VNN cũng là công trình nghiên cứu đó nghen. Rồi lật tiếp mấy cuốn luận văn từ bậc đại học đến bậc tiến sĩ mà xem, toàn trích dẫn từ báo chí. Tui chắc sắp tới cũng sẽ có nhiều luận văn, công trình nghiên cứu khoa học các cấp trích dẫn cái bài "vốn xã hội" mà tui bình loạn dưới đây cho mà xem.


Bài này trên VNN do nhà báo vừa ăn trưa một mình vừa viết.

1. Tiêu đề của bài báo là "vốn xã hội của chúng ta còn thấp".

Sự thực thì chưa có bằng chứng học thuật nào đề biết vốn xã hội của Việt Nam cao hay thấp. Có một số nhà nghiên cứu tiến hành thực nghiệm kinh tế học ở VN, kết quả là khả năng hợp tác hay sự quan tâm xã hội (social preferences) (là các yếu tố cấu thành nên vốn xã hội) của người Việt cao hơn mức trung bình của thế giới nhiều. Quan sát cho thấy, sự gắn kết cộng đồng, họ hàng làng xã (là yếu tố cấu thành vốn xã hội) của người Việt cũng khá lớn. Thế thì vốn xã hội của ta thấp nà thấp ở chỗ lào?

2. Tác giả viết "vốn xã hội thấp thể hiện sự khủng hoảng về lòng tin của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày".

Cảm nhận thì có thể nói lòng tin đang bị khủng hoảng thật. Nhưng bằng chứng từ World Value Survey cho thấy lòng tin (nói chung, với người lạ, với chính phủ) không thấp hơn mức trung bình của thế giới chút nào. Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh trong một nghiên cứu cho UNDP chỉ ra lòng tin của bà con ta ở ĐBSCL thật tuyệt vời.

3. Tác giả nhận định hỗn loạn trong giao thông là biểu hiện của vốn xã hội thấp.

Các yếu tố cấu thành vốn xã hội: mạng lưới xã hội (bạn bè, họ hàng), lòng tin, sự hợp tác. Yếu tố nào gây ra tình trạng hỗn loạn trong giao thông? Sự hợp tác? Elinor Ostrom chuyên nghiên cứu về vấn đề này, chỉ ra rằng muốn có hợp tác thành công, vai trò của thể chế (institution) là vô cùng quan trọng. Nếu muốn nói hỗn loạn giao thông là do thiếu hợp tác, thì không có nghĩa là do vốn xã hội thấp, mà do thể chế yếu.

4. Tác giả viết "Vốn xã hội được xem là phẩm chất của người dân"

Chỉ một dòng nhỏ các nhà nghiên cứu xem vốn xã hội là phẩm chất của cá nhân người dân. Dòng chủ đạo xem vốn xã hội là đặc tính của một cộng đồng.

Khỉ thật, câu sau tác giả lại viết "Khác với các loại vốn hữu hình như tài nguyên, lao động, tiền bạc, đây là loại vốn vô hình của một cộng đồng chứ không phải của một cá nhân".

5. Tác giả viết "vốn xã hội là một loại nội công, phải luyện tập lâu ngày mới có mà lại rất dễ tiêu hao".

Thực nghiệm kinh tế học chỉ ra rằng, khi có sự xuất hiện của những người xài chùa (free-rider), sự hợp tác giảm dần, nhưng mà không phải theo kiểu dễ tiêu hao nội công.

6. Tác giả nhận định vốn xã hội thấp là "mối bận tâm của không ít nhà đầu tư nước ngoài khi phải giải quyết các tranh chấp với người lao động trong các vụ đình công".

Càng phân tán càng dễ xử lý. Người lao động mà gắn bó chặt chẽ với nhau, tin nhau, hợp tác với nhau tốt thì mấy thằng tư bản phải lo mà tăng lương cải thiện điều kiện lao động đấy nhé.

7. Tác giả viết "Tôn giáo cũng góp phần đáng kể trong việc hình thành vốn xã hội".

Robert Putnam chỉ ra rằng đạo Tin Lành ở Ý là trở ngại cho việc hình thành vốn xã hội. Các nhà nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng xung đột giữa các tôn giáo thường phá hỏng vốn xã hội. Một nghiên cứu mới đây trên American Economic Review cho thấy sự hợp tác (tức vốn xã hội) ở những xã hội mẫu hệ là rất cao, trong khi ở nhóm Hồi giáo là thấp.

8. Tác giả viết "không ít người cho rằng kẻ thù lớn nhất của quá trình tích lũy và phát triển nguồn vốn xã hội chính là tham nhũng"

Có nghiên cứu chỉ ra rằng tham nhũng làm giảm vốn xã hội. Nhưng chưa thấy nghiên cứu nào nói tham nhũng là cản trở lớn nhất của việc phát triển vốn xã hội.

9. Tác giả viết "Đất nước ta với bề dày lịch sử và nhân văn lâu đời đã có nhiều giai đoạn nguồn vốn này phát triển rất mạnh. Đáng tiếc là trải qua nhiều biến động nay nguồn ấy đã suy kém dần."

Có 2 trường phái chính trong việc đánh giá tính ổn định của vốn xã hội: trường phái văn hóa và trường phái thể chế. Trường phái văn hóa thì cho rằng vốn xã hội khá bền vững, ít biến đổi theo thời gian, do được hình thành từ các yếu tố văn hóa lịch sử. Trường phái thể chế thì cho rằng vốn xã hội bị quy định bởi thể chế, cho nên có thể dễ thay đổi hơn. Bằng chứng số liệu của World Value Survey từ 1980 đến nay trên toàn thế giới cho thấy vốn xã hội (dùng chỉ số lòng tin làm đại diện) khá ổn định.

Truy ngược lại lượng hóa vốn xã hội trong lịch sử dường như là nhiệm vụ bất khả. Dù bạn có thành lập được nhóm nghiên cứu có bạn, Fukuyama, Putnam, Glaeser và Jared Diamond bạn cũng sẽ chào thua không chứng minh được nhận định này.

10. Tác giả viết "Vốn xã hội ở mức thấp thì dù có thu hút nhiều loại vốn vật chất khác nhiều đến đâu cũng khó đạt được một mức phát triển kinh tế cao và bền vững như mong muốn".

Có 2 trường phái mô hình hóa vốn xã hội: xem vốn xã hội là một production factor và xem vốn xã hội là factor productivity. Cả 2 trường phái đều chưa đưa ra bằng chứng rõ ràng vốn xã hội ảnh hưởng tác các loại input khác như thế nào. Tác giả đã khẳng định 1 câu đanh thép thế, các nhà nghiên cứu ở nhà bế con cho rồi, nghiên cứu làm chi nữa cho nhọc.

Tui không biết tác giả bài báo là ai, không có ý định chỉ trích cá nhân tác giả, chỉ mượn bài báo để nhắc các nhà báo đi ăn trưa nhớ mời chuyên gia nhé.

Quên, thêm chút nữa: nhớ mời đúng chuyên gia nhé, chứ không uổng tiền cơm.

Không có nhận xét nào: